Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009

Đóng bút 2009

Nhoằng cái hết năm, chả kịp làm điều gì ra hồn. Thôi thì đón năm mới.

Ngày cùng tháng tận
Nghe tiếng ai cười
Ngỡ mình là nắng
Dùng dằng xa xôi
Là chim mỏi cánh
Cô đơn cuối trời.

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2009

Chuyện Lý Quỳ


Sau khi nhận quyết định thăng chức thưởng công hơn chục năm cúc cung tận tuỵ pha trà rót nước, trong tâm trạng vừa mừng vừa lo, Lý Quỳ gặp Tống Giang tâm sự: Đại ca ca, cám ơn ca ca đã quan tâm đến đàn em, nhưng tiểu đệ cứ lo lo thế nào ấy. Đệ đức hèn tài mọn ai cũng biết, sợ không kham nổi chức Trưởng băng Nghiên cứu của Lương Sơn Bạc, hay là...
Nghe Hắc toàn phong than thở, Tống ca ca cười nhạt: Chú cứ khéo lo bò trắng răng, chả có tinh thần cách mạng cầu tiến gì cả. Ngay ta đây, tài cán có khi còn kém chú (nói riêng với chú thôi) mà còn ngồi được ghế cao hơn nữa là. Đã cơ cấu rồi, có ê-kíp rồi, cứ phục tùng tổ chức. Đù má, thằng cha Ngô Dụng không biết điều, cho nó chết. Thôi nào, ra quán của Hỗ tam nương làm vài chai Heineken nghe. À, chú nhớ sắp tết nhất rồi đấy.
Quỳ xoa tay rối rít: tiểu đệ lo lễ vật đủ cả, đại ca yên tâm.

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2009

TÌM MỘ CHÚ TÔI (hay CHUYỆN KỲ LẠ VỀ CÁC NHÀ NGOẠI CẢM)

Ông Nguyễn Văn Liễn

Phi lộ
Trong hai chúng tôi, cô Ngọt là người trực tiếp đi tìm mộ nên những điều kể ra dưới đây đều là sự thực. Tôi (Thông) viết lại lời kể, và đã đăng trên tạp chí Thế Giới Mới năm 2007. Nay lưu lại vào blog để mọi người cùng biết.

Việc các nhà ngoại cảm lâu nay tìm hài cốt liệt sĩ thường gây những luồng dư luận trái chiều, nửa tin nửa ngờ; chính vì vậy trong quá trình mời họ giúp đỡ, chúng tôi đã cẩn thận ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, ngày giờ, con người cụ thể... vừa để tỏ lòng biết ơn các ân nhân, vừa làm tư liệu cho gia đình. Và chúng tôi vẫn muốn nhắc lại: tất cả đều là sự thực!

GẶP CÔ ĐỒNG HÀ
Theo gia phả, dòng họ Nguyễn nhà tôi gốc gác ở huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình, khoảng cuối thế kỷ 18 cụ tổ di cư sang phủ Kiến Thụy (Hải Phòng) kiếm sống. Đến đời ông nội tôi là thế hệ thứ 3, các cụ sinh được 7 người con trai, bố tôi thứ 6, còn ông Nguyễn Văn Liễn sinh năm 1912 là út. Sinh thời bố tôi vẫn thường kể về chú Liễn học rất giỏi, sớm giác ngộ cách mạng và đã hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chưa tìm được mộ. Thông tin về chú cũng rất ít ỏi, nhất là nơi chôn cất, còn theo lời kể lại của những người cùng công tác cơ quan Thành ủy Hải Phòng thì mộ ông Liễn nằm tại một nơi nào đó huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Mãi đến khoảng cuối những năm 60, có một ông khách thỉnh thoảng từ TP Hải Phòng về trò chuyện cho biết nơi ấy là xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ bởi trạm giao liên của Thành ủy Hải Phòng hồi kháng chiến đặt tại đó, tháng 7.1951 ông Liễn trên đường đi công tác bị sốt rét ác tính không qua khỏi, được đồng đội và nhân dân địa phương chôn cất. Vị khách ấy sau chúng tôi mới biết là ông Lê Quốc Khánh, cán bộ Thành ủy, Giám đốc Bảo tàng Hải Phòng, ông rất nhiệt tình chỉ dẫn nhưng ngặt vì khi đó cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ rất ác liệt, đi lại khó khăn, vả lại những người khỏe nhất trong dòng họ đã ra chiến trường nên cứ nấn ná mãi. Trước khi mất (năm 1991) bố tôi dặn dò các con cháu dù sớm hay muộn cũng ráng tìm đưa bằng được ông Liễn trở về quê hương.
Việc đầu tiên là phải tìm đến những người đã cùng công tác với ông Liễn ở cơ quan Thành ủy Hải Phòng, nhất là những người đã biết về sự hy sinh của chú tôi. Các cụ đều đã già nhưng may mắn vẫn minh mẫn, kể nhiều chi tiết thật đáng quý cần thiết cho việc tìm mộ sau này. Ngoài ông Lê Quốc Khánh nói ở trên, Ngọt và anh Trác, anh Huy (con một người bác, cũng là cháu gọi ông Liễn bằng chú ruột), Kha (chồng Ngọt, sĩ quan công an Hải Phòng), Trí, San, Hiệu (gọi ông Liễn bằng ông)... chia nhau tìm đến nhà các cụ như cụ Ngô Văn Ngọ, cụ Vũ Văn Hồng, cụ Lê Tuấn- đều là cán bộ Thành ủy; ông Ngô Chí Khoái- nguyên sĩ quan tham mưu Sư đoàn 308 hồi năm 1951... để nghe kể về ông Liễn đã hy sinh như thế nào, ở đâu. Các cụ khẳng định nơi đặt trạm giao liên Thành ủy Hải Phòng chính là nơi có mộ ông Liễn. Và quý nhất là chi tiết: rất có thể nơi ấy trước kia là đồn điền của bà “địa chủ” Nguyễn Thị Năm.
Ông Nguyễn Văn Liễn và các cán bộ cơ quan Thành ủy Hải Phòng tại vùng tự do Vĩnh Bảo năm 1948 (ông Liễn thứ 2 từ phải sang; ông Trần Đông, sau này là Thứ trưởng Bộ Công an, thứ 4 phải sang)


Năm 1998, các anh Trác, Huy, Giễ (Dũng) khăn gói lên Thái Nguyên mở cuộc tìm kiếm đầu tiên nhưng do chưa chuẩn bị chu đáo nên không có kết quả. Cảnh quan đã thay đổi nhiều sau gần nửa thế kỷ, người dân địa phương cũng không mấy ai nhớ chuyện xưa, hỏi đồn điền bà Năm nhiều người không biết. Anh Trác về hỏi lại ông Khánh, ông khẳng định chắc chắn là ở Đồng Bẩm, đồn điền bà Năm, cứ chịu khó hỏi thế nào cũng lần tìm ra manh mối. Trước sự quả quyết của ông Khánh, lại nhen lên tia hy vọng.
Giữa năm 2003, cả nhà lại bàn việc tìm mộ ông Liễn. Lần này chủ yếu giao cho bọn thanh niên vì các anh đã lớn tuổi, sức yếu khó trèo đèo lội suối. Kha là công an nhưng giỏi tử vi bảo rằng tại sao không nhờ các nhà ngoại cảm tìm giúp. Nhưng chuyến đi đã được chuẩn bị xong, thời gian gấp gáp nên đợt này nếu vẫn chưa kết quả gì sẽ tính đến điều ấy, tuy nhiên nếu có điều kiện sẽ kết hợp luôn. Sáng thứ ba 5.8.2003, thắp nhang trước bàn thờ ông Liễn khấn ông phù hộ xong, chúng tôi lên đường. Xe khách khởi hành từ Hải Phòng lúc 6 giờ, chỉ 10 giờ 30 đã tới TP Thái Nguyên, nghỉ ngơi một chút tôi (Ngọt) và Kha mượn xe máy tìm đến UBND xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ. Sau khi xem giấy giới thiệu của Thành ủy Hải Phòng, anh Bùi Ngọc Văn cán bộ chính sách xã dẫn chúng tôi đi gặp một số người từng tham gia kháng chiến ở địa phương, trong đó có bà Vãn (chồng tên Đăng nên thường gọi là bà Đăng) đang bán hàng tại chợ thị trấn Chùa Hang. Bà quê gốc Thái Bình, giúp việc cho gia đình bà Nguyễn Thị Năm, chủ đồn điền từng nuôi dưỡng, che giấu nhiều cán bộ cách mạng cấp cao (Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị...), nuôi hàng trung đoàn Vệ quốc quân thời đánh Pháp. Bà Vãn đã ngoài 80 nhưng đầu óc minh mẫn lắm, kể lại những chuyện xảy ra cách nay cả hơn nửa thế kỷ mà vẫn khúc chiết với nhiều chi tiết rõ ràng không ngờ. Bà bảo hồi cụ Năm còn sống có biết bao nhiêu đoàn cán bộ chiến sĩ đã ghé đây, được nuôi dưỡng chăm sóc; những người chết bệnh hoặc hy sinh từ mặt trận đưa về được chôn ngay trong đồn điền, khu vực ao sen, nhưng khi ấy đồn điền rộng hơn 12.000 ha nên bây giờ cũng khó xác định nơi nào. Sực nhớ điều gì, bà Vãn khuyên chúng tôi đến gặp cô đồng Hà ở xã Cù Vân, huyện Đại Từ để gọi hồn, “nhờ cách ấy mà chính tôi đã tìm ra mộ bố mình đấy, cô chú ạ”. Cám ơn và xin phép bà ra về, chúng tôi chỉ mong đêm qua thật mau để tìm đến nhà cô đồng.
Sáng 6.8.2003, theo lời chỉ dẫn của bà Vãn, chúng tôi đến xóm Bắc Máng, xã Cù Vân, huyện Đại Từ. Nhà cô đồng Hà nhỏ ba gian ngay dưới chân đồi. Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy cô còn trẻ, khoảng 25- 27 tuổi, gầy nhỏ nhắn. Phải nói rằng đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp người được gọi là “cô đồng”, và cũng lần đầu tiên gặp cô đồng Hà bởi cuộc viếng thăm này hoàn toàn bất ngờ không hề chuẩn bị trước. Mặc dù mới sáng sớm nhưng trong nhà cô đã có gần chục người ngồi đợi. Một chiếc bàn thờ nhỏ đặt nơi góc nhà trang trí sơ sài, nghi ngút khói hương. Lúc chúng tôi vào, cô đang lắc lư gọi hồn mẹ một phụ nữ trạc tuổi 45. Có chị khách ngồi ngoài cửa cho biết lễ vật một lần gọi là 1 bát gạo và 2.000 đồng. Kha sang nhà cạnh đó hỏi mua bát gạo, lúc trả tiền chủ nhà chỉ “xin bác 1.000 đồng”. Chúng tôi đặt lễ vật lên bàn thờ rồi bước ra ngoài chờ đến lượt mình, lòng cảm thấy hồi hộp bởi trước nay chỉ nghe những chuyện nửa thực nửa hư quanh việc gọi hồn, còn bây giờ chính mình sẽ tham gia. Khi đến lượt, tôi viết họ tên mình và tên chú Liễn vào mảnh giấy nhỏ. Cô đồng cầm lấy và lên giọng ngân nga khấn khứa. Rồi im lặng. Dăm phút sau cô bật khóc nức nở. Người ngồi cạnh bấm nhẹ tay tôi “cụ về rồi đấy, cô gọi cụ đi”. Tự dưng tôi òa khóc, vội vàng thưa “Chú ơi, con là Nguyễn Thị Ngọt đi tìm chú đây. Sao chú lại chết?”. Cô đồng trả lời, rất nhỏ, tiếng nói như từ cõi xa nào vọng về “chú bị sốt”. Nghe vậy tôi bàng hoàng bởi ông Lê Quốc Khánh từng nói với bố tôi là chú Liễn chết do sốt rét ác tính. - Chú ơi, giờ này chú đang nằm ở đâu? - “Dưới chân một tường rào, bị đè lên rồi!”. - Liệu chúng con có tìm được không? - “Tìm được”.
- Ngay chiều nay có tìm được không? - “Không. Hôm qua con đã đi qua lại trước mặt chú nhiều lần nhưng hôm nay vẫn chưa tìm được đâu”. - Vậy làm thế nào tìm? - “Bao giờ con gặp chỗ có nhiều hòn đá nhỏ, lẫn ở đó có một hòn đá màu trắng to bằng cái ghế con (tôi đưa mảnh giấy, cô đồng vẽ nguệch ngoạc vào) thì đó là chỗ chú nằm”. - Chú ơi, con cùng anh Trác và các cháu đang làm giấy đề nghị công nhận liệt sĩ cho chú, liệu có thuận lợi không? - “Trước thì khó khăn, bây giờ bắt đầu thuận lợi rồi” (khi chúng tôi trở về Hải Phòng, quả đúng như thế). - Chú có cần gì không? Ông Khánh, ông Ngọ nhớ và thương chú lắm, chú có nhớ các ông ấy không? - “Không cần gì cả. Có nhớ các ông ấy” (cô đồng khóc). - Chúng con đi tìm chú, có gì chú mách bảo, hướng dẫn nhé (cô đồng im lặng không nói gì, sau đó gật đầu). Ít phút trôi qua, cô choàng tỉnh, uống liền mấy cốc nước, như không có chuyện gì vừa xảy ra. Trời đã trưa, chúng tôi về để chiều tiếp tục cuộc tìm kiếm.

CHUYỆN GIA ĐÌNH “ĐỊA CHỦ” NGUYỄN THỊ NĂM
Chiều 6.8, nhớ câu nói của bà cụ Vãn “những người chết tại đồn điền trong khoảng những năm 1950- 1953 đều chôn ở khu vực ao sen” nên chúng tôi dò hỏi và tập trung tìm kiếm tại nơi này. Trên thực địa mênh mông, nhà cửa chen lẫn rừng cây, chỗ nào chẳng giống chỗ nào. Ao sen ở đâu, liệu có còn? Theo lối mòn cạnh tường rào UBND huyện Đồng Hỷ, đến nơi cách đường lớn khoảng ba bốn trăm mét chúng tôi chỉ thấy một bờ cây gai góc rậm rạp. Gặp bà cụ ngoài 70 đang chăn trâu, cụ hỏi ngay “chắc cô chú đi tìm mộ?”. Chúng tôi lại một phen kinh ngạc liền hỏi thăm bà cụ ao sen chỗ nào. Cụ chỉ tay “ngay cạnh chỗ cô chú đứng chứ đâu”. Nhìn kỹ thấy đúng là có cái ao thực, hình bầu dục, vẫn còn những bậc đá lên xuống. Phía bên phải ao, nhà cửa cây cối sầm uất, rậm rạp. Vạch cây rẽ lá, chúng tôi dò tìm quanh quẩn một lúc thì phát hiện đằng góc ao có đống đá nhỏ, trong đó một hòn to hơn và có vẻ trắng hơn. Chả biết có phải cô đồng Hà nói vậy mà mình cảm thấy vậy chăng? Nửa phân vân, nửa hy vọng, chúng tôi lại gần đống đá và thắp hương khấn mong chú Liễn về phù hộ. Đi thêm một đoạn chợt thấy ngôi nhà xây tường gạch bao quanh, chúng tôi gõ cửa. Một phụ nữ ngoài 40 đẹp hiền hậu ra mở cửa đưa chúng tôi vào nhà mặc dù chưa biết khách là ai. Nhìn những huân huy chương treo trên tường, tôi biết đây là nhà đại tá Mai Trung Lâm, nguyên tư lệnh trưởng Quân khu 2, đã mất. Sau khi con dâu vào báo tin, bà Lâm ra tiếp. Kha thưa với bà mục đích chuyến đi, bà tỏ vẻ rất xúc động khi nghe chuyện về ông Liễn bởi bà từng là cán bộ kháng chiến hoạt động tại vùng này. Hỏi về khu đồn điền, bà Lâm bùi ngùi kể cho chúng tôi về bà Nguyễn Thị Năm và những đóng góp to lớn của bà Năm với cách mạng; bà khuyên chúng tôi kiên nhẫn tìm kiếm, đừng bỏ dở chừng. Bà lại giới thiệu sang gặp cụ Quý, người thân thiết với gia đình bà Năm, nhà cũng gần đó.
Sang gặp cụ Quý. Chuyện trò một hồi, khi chúng tôi khoe đã gặp bà Vãn, cụ Quý thoáng nhíu mày, im lặng không nói gì chỉ khuyên chúng tôi nên tìm gặp ông Hanh, con trai cụ Nguyễn Thị Năm, lại cho cả địa chỉ và số điện thoại nhà ông Hanh ở Hà Nội.
Biết có ở lại Thái Nguyên cũng chưa thể tìm được mộ vì thông tin còn quá ít ỏi, hôm sau 8.8.2003 chúng tôi quay trở về Hà Nội. Đến nhà số 117 Hàng Bạc, may mắn gặp bà Hanh, con dâu trưởng cụ Năm. Ấn tượng đầu tiên về bà là sự gần gũi cởi mở nhưng vẫn toát lên vẻ lịch lãm sang trọng. Chúng tôi xin phép thắp hương cho cụ Năm, chạnh buồn nghĩ đến người phụ nữ mà cuộc đời gắn liền với một giai đoạn cực kỳ hào hùng nhưng cũng đầy đau thương của dân tộc. Cụ Năm là người đầu tiên bị xử bắn khi cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” năm 1953 mở màn, cái chết của “bà địa chủ” này đã thành tấn bi kịch không chỉ của một con người, một gia đình mà của cả một thời kỳ lịch sử. Mặc dù ngay sau đó Nhà nước đã tiến hành “sửa sai”, nhìn nhận lại những ấu trĩ, sai lầm của “cải cách ruộng đất” nhưng có những nỗi đau vẫn cứ dai dẳng. Trò chuyện, bà Hanh bảo: Gia đình tôi rất buồn vì đến giờ cụ (cụ Năm) vẫn chưa được công nhận là người có công với kháng chiến. Mẹ tôi nuôi dưỡng, che chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, hiện rất nhiều người còn sống biết chuyện nhưng đều đã cao tuổi, mai sau họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng. Bà kể thêm, giọng đượm buồn: “Cô chú biết không, cô Đăng (tức bà Vãn mà chúng tôi đã gặp trên Thái Nguyên) là người giúp việc cho cụ Năm, cụ rất thương yêu, tin cậy. Vậy mà chả hiểu làm sao tự dưng cô ấy lại chính là người đấu tố cụ nhà tôi hăng nhất”. Tôi chợt nhớ sự im lặng, trầm ngâm của bà Quý lúc trên Thái Nguyên và thưa lại những điều tốt đẹp mà bà Vãn nói về cụ Năm trong cuộc gặp vừa qua, bà Hanh nghe nhưng vẫn buồn.
Sau cuộc gặp này, việc liên lạc với gia đình cụ Năm được giao lại cho Nguyễn Ngọc Trai (con anh Trác), sĩ quan đang công tác tại Cục Bản đồ (Bộ Quốc phòng). Trước đó ông Hanh có kể cho tôi nghe về chuyện tìm mộ mẹ mình. Sau khi xử bắn, người ta đã đem xác “địa chủ” Nguyễn Thị Năm đi chôn nơi nào đó mà thân nhân không hề biết. Kể từ hòa bình lập lại, gia đình rất nhiều lần tổ chức tìm mộ cụ nhưng không thành, thất vọng đến mức đành phải lấy tạm một ít đất ở khu vực đồn điền, nơi bà bị bắn cho vào cái tiểu sành đem về, thay cho hài cốt. Năm 1993, nghe người ta kể về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ (tỉnh Hải Dương), ông Hanh tìm đến. Lúc ấy mặc dù rất bận nhưng ông Liên vẫn sốt sắng giúp; có lẽ với một người, một số phận như cụ Nguyễn Thị Năm chả ai nỡ từ chối. Lúc tiến hành tìm kiếm, ông Liên vẫn ở Hải Dương, chỉ hướng dẫn qua điện thoại. Cả đoàn nhất nhất làm theo lời nhà ngoại cảm, ông Liên bảo hãy đến khu vực sân bay cũ bỏ hoang, thấy cây nào có lá nhỏ nhất thì đào. Mọi người chia nhau tìm trên cả vùng rộng lớn, cây cối um tùm và thật lạ cả khu vực mấy cây số vuông chỉ duy nhất một cây phượng lá nhỏ. Chưa kịp gọi điện báo về thì nhà ngoại cảm chủ động gọi, nói chính nơi đó, ngay gốc cây, hãy đào đi. Đào xuống sâu hơn một mét quả nhiên thấy có bộ hài cốt chôn sơ sài đã nát vụn, duy chỉ còn mấy chiếc cúc áo của chiếc áo mà cụ Năm mặc khi bị bắn là con cháu nhận ra ngay. Mọi người òa khóc. Và may làm sao, không thể nào nhầm được khi lẫn trong đám xương vụn đó chiếc vòng tay ngọc thạch cụ Năm thường đeo. Cả nhà bùi ngùi xót thương đưa cụ về. Ông Hanh cùng con cháu đắp thêm đất vào gốc cây phượng. Suốt 40 năm trên nấm mồ hoang không hương khói, cây phượng vĩ vẫn nở những chùm hoa đỏ rực viếng hương hồn người đàn bà chịu nhiều oan khiên.

BẢN SƠ ĐỒ CỦA NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN ĐỨC PHỤNG
Qua sự giới thiệu của ông Hanh, Trai tiếp tục đến Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người (Bộ Quốc phòng) tìm ông Liên nhưng không gặp. Dạo này ông thường ở quê Hải Dương. Đang lúc chưa biết sẽ phải làm gì thì ông Nguyễn Đức Phụng cũng là nhà ngoại cảm ở trung tâm hứa giúp đỡ. Trai kể ông Phụng nghe đầu đuôi câu chuyện, ông liền vẽ một sơ đồ trên giấy A4 với những chỉ dẫn cụ thể, cho cả số điện thoại để tiện liên lạc (số 0904167724).
Ngày 28.2.2004, Nguyễn Ngọc San, cán bộ Sở Văn hóa- Thông tin Hải Phòng (cũng là cháu gọi ông Liễn bằng ông) thu xếp một chuyến xe đưa cả đoàn gồm Ngọt, Kha, Trí, Trai lên Thái Nguyên. Khởi hành sớm từ 5 giờ sáng, gặp bữa sương mù nên xe chạy hơi chậm, mãi gần trưa mới đến Đồng Hỷ. Kha nửa đùa nửa thật “chuyến này chưa tìm được mộ ông thì chưa về” để tỏ rõ quyết tâm của cả bọn. Gửi xe vào khuôn viên UBND huyện, căn theo bản sơ đồ ông Phụng vẽ, chúng tôi chia nhau đi tìm. Lại đến khu ao sen, rẽ vào thăm bà Mai Trung Lâm. Cuộc tái ngộ thật cảm động. Sau gần nửa năm trời, bà Lâm vẫn nhận ra ngay chúng tôi. Bà kể từ dạo đó đến nay bà đã mấy lần gặp những cán bộ kháng chiến ở xung quanh đây dò hỏi về ông Liễn, và trách nhẹ “không thấy các cháu quay lại, cũng chẳng tin tức gì, bác tưởng các cháu đã nản lòng”. Tôi thưa chuyện cùng bà, lòng thầm cảm ơn trời phật đã độ trì cho chúng tôi gặp được những người tốt như vậy.
Chia thành hai nhóm, nhóm gồm tôi và Trí xin phép bà Lâm đi tiếp vào sâu phía trong. Một phụ nữ trung niên đang tưới rau muống chỉ cho chúng tôi lối mòn dẫn vào bản. Con đường này đúng y trên sơ đồ chỉ dẫn ông Phụng vẽ. Trước khi chúng tôi lên đường, gọi điện cho ông, ông dặn “cứ gặp 3 cụ già hỏi sẽ ra”. Loanh quanh một lúc, vòng sang bên phải, chúng tôi lần theo bức tường bao men lối đi dẫn vào căn nhà nhỏ ven đường. Không ngờ Kha và Trai đã đến tự hồi nào, đang trò chuyện với 3 cụ già khoảng 70- 80. Bất chợt ngoài cổng có tiếng trẻ con reo “A, cậu đã về”, nhìn ra thấy một người đàn ông trung niên dắt xe đạp vào. Chúng tôi chưa kịp chào, anh hỏi luôn “Đi tìm mộ phải không? Chẳng cần tìm đâu xa, ở gần đây thôi!”. Mọi người ngạc nhiên, anh tự giới thiệu tên là Định, nói ngay “ngày bé tôi suốt ngày chơi ở đây, biết chỗ này có một cái mộ” rồi chỉ vào phía góc tường bao, chỗ Trai đang đứng, gần đó là cái gốc cây to cao khoảng nửa mét. Thật mừng vì theo sơ đồ ông Phụng thì mộ nằm trên sườn đồi, cạnh ngã ba, dưới một cây to, biết đâu cái gốc cây này có quan hệ gì với cái cây đó chăng.
Chẳng để chúng tôi hỏi gì thêm, anh Định sốt sắng dẫn cả bọn sang thăm gia đình ông Thảo, chủ khu vườn xây tường bao chắc chắn. Ông niềm nở đón tiếp và đưa chúng tôi đi khắp khu vườn rộng. Tới góc vườn, khi nhìn qua bức tường thấy bên ngoài là ngã ba, bất chợt cả bọn òa lên sửng sốt bởi trước mặt có đống đá lụn vụn, ở giữa là viên đá trắng tinh to bằng chiếc ghế con. Trời ạ, đúng như lời chỉ dẫn của cô đồng Hà hơn nửa năm trước trong buổi gọi hồn. Tôi lạnh cả sống lưng, hỏi nhỏ ông Thảo: Sao lại có đống đá ở đây hả bác? Ông Thảo: “Khi gia đình tôi chuyển về đây thấy có rồi, làm vườn cứ dồn lại thêm thôi”. - Sao lại có viên đá trắng đẹp thế ạ? - “Con trai tôi làm việc ở xí nghiệp đá, nó mang về bảo là đá Thanh Hóa nhưng cả nhà chẳng ai dùng vào việc gì nên vứt đại vào đó. - Lâu chưa hả bác? - “Cũng dăm tháng nay thôi”. Lúc ấy 3 cụ già mà chúng tôi đã gặp và một số cụ khác tới, chúng tôi hỏi gần đây có cây to nào không, các cụ chỉ ra gốc cây phía ngoài tường bao: “Có cây thị to lắm, suốt mấy chục năm lá cứ xanh ngăn ngắt nhưng chưa bao giờ cho quả. Cách nay mấy tháng xã mở rộng con đường này, đám thanh niên đứng ra chặt, còn lại cái gốc chả ai đánh đi”. Nhìn xung quanh góc vườn sạch sẽ, có một giàn trầu, bờ tường phủ đầy hoa đỗ ván tim tím xinh xinh, mấy khóm ngải cứu, khóm hoa cúc thoang thoảng hương thơm, nếu chú Liễn nằm đây thì cũng mát mẻ, sạch sẽ, chẳng tủi vong linh suốt mấy chục năm trời.
Cũng cần nói thêm rằng tất cả mọi thông tin có được trong quá trình đi tìm mộ chúng tôi đã nhất trí với nhau phải giữ kín để tránh sự suy diễn của người được hỏi. Sau một hồi trò chuyện, Trí nói bâng quơ chả biết gần đây có ngôi mộ nào không. Nghe vậy, một người phụ nữ luống 40 tuổi vừa đến nói nhỏ “có đấy, không chỉ một mà những hai ngôi mộ kia”. Theo hướng tay chị chỉ, Kha giở sơ đồ của ông Phụng đối chiếu thấy vị trí và khoảng cách đúng y boong. Những thông tin trùng lặp giữa cô đồng Hà, ông Nguyễn Đức Phụng và thực tế làm chúng tôi phấn chấn hẳn lên. Bà vợ ông Thảo khuyên: “Các cô các chú ạ, ở vùng này ai tìm mộ cũng thường hỏi xin ý của Sư cụ chùa Hang. Nếu cô chú có tâm có duyên được gặp cụ, cụ dạy cho một nhời thì may lắm, chả còn gì phải phân vân cả”.

SƯ CỤ CHÙA HANG
Mặt trời đã đỉnh đầu, cả bọn ra thị trấn chùa Hang ăn cơm rồi lên xe về TP Thái Nguyên nghỉ trưa. Chả ai ngủ được. Đúng 2 giờ chiều trở lại Đồng Hỷ. Giữa một vùng đồi núi lô nhô như bát úp nổi lên ngọn núi đá vôi hùng vĩ vút lên trời chiều với những tảng đá xám sắc cạnh. Ngôi chùa cổ đặt trong hang núi mà thành tên. Phía bên ngoài, cạnh hang là ngôi nhà tổ và dãy nhà ngang. Chúng tôi chờ ở bên ngoài cùng hai gia đình đã đến trước để nhờ sư cụ làm lễ cầu siêu cho người thân vừa mới mất. Lát sau có dăm người khác cũng tới mong nhận được lời chỉ giáo của cụ. Hương trầm thoang thoảng, không khí u tịch bao trùm không gian. Kha ghé tai tôi nói nhỏ đây đúng là nơi siêu thoát khác hẳn cuộc sống trần tục xô bồ xung quanh chỉ cách vài trăm bước chân. Chờ thêm chút nữa có một người trong chùa bước ra bảo rằng cụ hẹn đúng 3 giờ sẽ về. Quả nhiên lúc kim đồng hồ chỉ đúng 3 giờ thì một chiếc xe du lịch 12 chỗ chở cụ về đến nơi. Mọi người tíu tít ùa ra đón, người dìu cụ, người xách giúp hành lý, gương mặt ai nấy lộ vẻ thành kính thương yêu. Cụ ngồi nghỉ một lúc trên chiếc giường nhỏ trong gian nhà tổ. Người người xúm xít xung quanh, bóp chân tay, lấy nước lấy khăn cho cụ lau mặt, têm trầu mời cụ... Tự dưng tôi thấy cụ hết sức gần gũi, chả khác gì mẹ tôi ở nhà (đã 88 tuổi). Vừa nhè nhẹ bóp tay cụ, tôi quan sát cụ thấy da đỏ hồng, đặc biệt là gương mặt cực kỳ thông tuệ, đôi mắt tròn và rất sáng. Người phụ nữ dáng vẻ lam lũ ngồi bên cạnh cho tôi biết Sư cụ Đàm Hinh nay đã 93 tuổi (năm 2004) sau đó đặt hai quả gấc đỏ tươi lên chiếc đĩa và kính cẩn “con biếu cụ”. Cụ chỉ “ừ” rồi với lấy mấy quả cam đưa tận tay chị. Người biếu tiền, người biếu bánh... với ai cụ cũng nhận và cho lại lộc. Tôi đặt mấy tờ bạc vào chiếc đĩa nhỏ và rón rén để cạnh chỗ cụ ngồi. Cụ hỏi ngay “Có việc gì không?”. Tôi mạnh bạo: Thưa cụ, con đi tìm mộ người thân. Cụ nhíu mày, lấy ngón tay cái ấn vào giữa hai lông mày, mắt nhìn xa ra ngoài sân ngập nắng chiều. Lát sau cụ bảo, giọng rành rẽ: “Còn mộ đấy! Ở trong vườn nhà người ta, đừng tìm ngoài nghĩa địa cho phí công. Phía trong tường rào”. Ngừng giây lát, cụ nói thêm “Nhớ là vườn có hai chủ. Thôi về đi!”. Tôi vội vàng: Cụ ơi, hài cốt còn gì không? - “Còn, nhưng ít thôi”, cụ chỉ ngắn gọn bấy nhiêu rồi không nói gì nữa. Biết có ở lại cũng chẳng thể thêm được gì, chúng tôi vội vàng trở về nhà ông Thảo. Hỏi thăm lai lịch khu vườn, ông bảo trước đây chỗ này ông mua của bà Hải (cô ruột anh Định). Một phần khu vườn này, nơi mà sau đó chúng tôi tìm ra mộ ông Liễn, là của nhà anh Định. Khi xã mở con đường xuyên qua, vườn anh Định bị chia làm hai, gia đình anh liền bán nốt phần bên trong cho ông Thảo. Mà cũng mới bán chưa làm giấy tờ. Đúng là hai chủ. Nghe chúng tôi kể lại, các cụ già trong xóm xuýt xoa: các cô các chú được gặp cụ, được cụ tiếp là may lắm. Chúng tôi người ở đây mà cũng chẳng mấy khi được gặp bởi cụ còn ở cả chùa Huống và mấy chùa khác nữa cơ. Bà Thảo thì thầm: Được lời của cụ rồi, cô cứ yên tâm chuẩn bị để lần sau lên bốc cốt về.
Về Hải Phòng, trên xe ai nấy tràn trề hy vọng bởi chuyến đi này gặt hái nhiều kết quả ngoài sự mong đợi. Đành rằng vẫn biết việc tìm một ngôi mộ sau hơn nửa thế kỷ giữa vùng đồi núi mênh mông chẳng đơn giản chút nào, có khi tưởng như đã đi đến đích mà vẫn về tay không nhưng nhiều thông tin vừa có cực kỳ quý báu. Và càng mừng hơn nữa khi mọi người trong gia đình báo tin Thành ủy, Sở Lao động- Thương binh- Xã hội Hải Phòng đã xác minh xong, tiếp đó Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội đã có quyết định công nhận ông Nguyễn Văn Liễn là liệt sĩ. Cả họ họp lại và thống nhất phải đưa liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn về quê trước Tết Ất Dậu.
Ngày 7.1.2005 (27 tháng 11 Nhâm Thân), đoàn đi Thái Nguyên đã sẵn sàng, ngoài những người tham gia hai đợt trước nay bổ sung những con cháu khỏe mạnh nhanh nhẹn nhất trong họ như Thanh Long (thượng tá hải quân), Ngọc San, Lương Vân (giáo viên), Quang Hiệu (kỹ sư), Công Khuê (sĩ quan hậu cần). Đêm trước khi khởi hành tôi gần như không ngủ vì lo chuyến đi không thành công. Mà lần này về tay không cũng có nghĩa là ông Liễn nằm chốn nào đó quê người không biết đến bao giờ. Thậm chí anh Trác và cả nhà còn tính đến phương án: nếu không tìm được hài cốt ông Liễn thì xin một nắm đất vùng đồn điền bà Năm mang về, coi như liệt sĩ đã quy cố hương. Buổi chiều tôi tự tay đi mua sắm mọi thứ chuẩn bị cho chuyến đi. Tôi nhớ hôm trước ông Phất, cán bộ Văn phòng Thành ủy Hải Phòng chỉ cho cách tìm hài cốt bằng việc thử đặt quả trứng gà lên đầu chiếc đũa, ông bảo rất hiệu nghiệm, chưa sai bao giờ. Nghe tôi kể lại, chị Tuyên hàng xóm- vợ liệt sĩ cũng xác nhận như vậy. Chị nguyên là Phó phòng Giáo dục huyện Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) nay đã nghỉ hưu, hồi vào nghĩa trang Trường Sơn tìm mộ “gió thổi ào ào, vậy mà quả trứng đặt trên đầu đũa không hề lung lay cứ như được cắm chặt vào đó, cô chú ạ”. Chị nói thêm đũa phải sạch, trứng gà phải tươi thì mới linh. Vì sợ bị lôi cuốn vào những chuyện phép thuật ma mị nên tôi ra chợ Đồng Quốc Bình gần nhà tự tay chọn mua 5 quả trứng gà thật tươi, rửa sạch lau khô; chọn 5 chiếc đũa trong bó đũa mới chưa hề dùng bọc lại cẩn thận. Làm vậy nhưng lòng vẫn thoáng chút hồ nghi bởi trước đó, dịp Tết dương lịch Khuê con trai tôi đã lên Thái Nguyên tiền trạm để chính thức xin phép ông Thảo cho tìm hài cốt trong vườn nhà ông, nhân tiện thử đặt trứng nhưng mấy lần đều không thành công.

Những quả trứng như bị hút chặt vào đầu đũa, ngay nơi sau đó tìm thấy hài cốt ông Liễn (người trong ảnh là Nguyễn Ngọc San, cháu gọi ông Liễn bằng ông)

THÊM NHỮNG ĐIỀU KỲ LẠ
Đúng 5 giờ sáng 8.1.2005 tất cả tập trung đông đủ và khởi hành. Quốc lộ 18B mới hoàn thành, đường vắng, xe bon bon nên mới hơn 8 giờ đã đến xã Đồng Bẩm. Kha và Trí vào ủy ban xã liên hệ, số còn lại thẳng đến nhà ông Thảo. Gia đình dường như vẫn chờ đợi niềm nở tiếp đón, nhất trí cho đào thăm dò, khai quật khu vực góc vườn nhưng bà Thảo bảo “cô ạ, vườn nhà tôi thật nhưng phép công lệ làng, có sự đồng ý của ủy ban là tốt nhất”. Trong khi chờ đợi, chúng tôi xin phép ông Thảo cho thắp hương cúng bái gia tiên và thần thổ công đất nước và cũng xin được đền bù thỏa đáng nếu việc tìm kiếm mộ liệt sĩ làm ảnh hưởng, thiệt hại tài sản của gia đình. Một lúc sau Trí và Kha từ ủy ban về có vẻ buồn, hơi lo lắng, nói rằng việc xin phép chính quyền gặp trục trặc vì xã không dám quyết, yêu cầu phải có sự đồng ý của huyện. Kẹt ở chỗ hôm nay thứ bảy ngày nghỉ nên huyện không làm việc. Biết làm sao đây? Trước khi lên đường, chúng tôi đã báo cáo Đảng ủy, ủy ban xã nơi quê nhà và các anh ấy hứa sẽ tổ chức thật trọng thể lễ đón hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang. Ngày giờ đã định rồi. Cả gia đình họ tộc đang mong ngóng chờ đợi. Chúng tôi hội ý và quyết định cứ xin phép ông Thảo cho tìm kiếm trước, thủ tục giấy tờ lo sau. Nghe San thắc mắc sao đi đâu cũng vướng thủ tục hành chính rườm rà, anh Nguyễn Văn Thanh, cán bộ xã phụ trách công tác thương binh- xã hội (thay anh Vũ Ngọc Văn đã chuyển sang công tác bên Hội đồng Nhân dân) giải thích nếu tìm thấy hài cốt liệt sĩ thì chính quyền địa phương phải có trách nhiệm tổ chức lễ tiễn đưa theo đúng chính sách với người đã hy sinh, vì vậy sự đồng ý của các cấp là cần thiết. Chúng tôi hiểu ra và thông cảm.
Trước khi đào, chúng tôi bày lễ vật, trầu cau, trái cây, đồ vàng mã... ra cúng rồi lấy trứng, lấy đũa để thử. Ai cũng hồi hộp, nhất là Khuê vì Khuê đã làm thử mấy lần kỳ trước không thành. Nếu trứng không đậu được trên đầu đũa có nghĩa là niềm tin, niềm hy vọng rất mong manh. Đầu tiên tôi khấn “Chú ơi, chú có linh thiêng hãy báo cho chúng con biết chú nằm ở đâu, con đặt trứng thì trứng sẽ đậu”. Không khí trang nghiêm, nét mặt người nào cũng căng thẳng. Đất rắn quá, tôi cắm chiếc đũa mãi mới được. Tay run run, gần như không còn hơi thở, tôi nhẹ đặt quả trứng lên đầu đũa. Vài cơn gió thổi nhẹ, lá cây xào xạc. Chỉ một lần, quả trứng đậu ngay, im lìm, vững chãi. Tôi òa khóc. Đến lượt San- cháu trưởng, quả trứng đậu liền. Hiệu làm tiếp theo, run lập cập, tưởng rớt ai ngờ trứng cũng nằm ngay ngắn trên đầu đũa. Một thanh niên địa phương thấy vậy xin thử nhưng làm hết cách trứng vẫn rơi. Những quả trứng đang ngự trên đầu đũa dường như có một lực vô hình giữ chặt mặc gió thổi, tiếng động chân người đi qua đi lại. Lúc tàn hương, tôi lấy quả trứng ra có cảm giác nó hút chặt lấy đầu đũa, hỏi San và Hiệu, cả hai đều có cảm giác y như thế.

Ông Nguyễn Đức Phụng dặn thêm: cần đào sát vào mé tường, nơi có mấy bụi cây (rau ngót) mọc lúp xúp (từ trái sang: Nguyễn Ngọc Trai, Lương Vân - con và rể anh Trác, Nguyễn Quang Hiệu - con anh Huy, Thanh Long, Minh Trí - rể và con trai trưởng anh Trác


Bắt đầu đào hố thứ nhất. Trai liên lạc với ông Nguyễn Đức Phụng nhưng sóng điện thoại di động chập chờn nên không được. Qua lớp đất màu phía trên còn dễ đào, càng xuống sâu càng rắn. Bà con xung quanh kéo đến xem bảo “May đêm qua trời mưa to, đất đã mềm nhiều đấy”. Cả 9 người hì hục đào. Buổi sáng trôi qua, hố thứ nhất đã sâu nhưng vẫn không thấy gì. Nghỉ trưa, kéo nhau ra thị trấn Chùa Hang ăn cơm, mấy cô cháu anh chị em động viên nhau gì thì gì cũng quyết tâm tìm cho bằng được. Nói vậy nhưng lòng tôi mơ hồ nghĩ nếu lần này không tìm được chú thì chả còn dịp nào nữa. Buồn và lo. Buổi chiều kéo nhau về đào tiếp. Một bác thợ xây ra xem mách chúng tôi nên nhờ hai người thợ đấu (chuyên đào đất) có nhiều kinh nghiệm tìm mồ mả ở đây, trong đó có anh Đinh. Mời họ đến. Xem xét một lúc, anh Đinh quả quyết muốn tìm trúng mộ phải đào tìm được cái miệng giếng cũ bởi lúc nhỏ anh thường chơi đùa ở giếng, thấy gần đó có nấm đất hình như là mộ thì phải. Chả biết ai đã đào cái giếng nhưng nước xấu nên sau đó lấp đi. Theo chỉ dẫn của anh Đinh, hố thứ hai được mở rộng về hướng đông, sát góc tường, quả nhiên thấy một miệng giếng cũ còn cả gạch bao. Thật may lúc ấy Trai liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Đức Phụng. Qua điện thoại, ông Phụng hướng dẫn: “Mộ nằm ở chỗ có nhiều bụi cây lúp xúp, cao khoảng 20- 30cm”. Nhìn kỹ, thật kỳ lạ, xung quanh đây có đến mấy chục bụi cây rau ngót mà chủ nhà vừa mới đốn, chỉ còn cao cỡ như vậy. Ai nấy rất mừng. Xế chiều, mấy cụ bà trong xóm đến chơi xem, thăm hỏi, ngồi ăn trầu uống nước ngay chỗ chúng tôi đào. Một bà sốt sắng “để tôi khấn xin âm dương giúp cô”. Bà Thảo chủ nhà vào buồng lấy cho mượn hai đồng tiền cổ, còn tôi chuẩn bị trầu cau, gạo muối và ít tiền lẻ làm lễ vật khấn xin âm dương. Bà cụ thành kính khấn “Cụ ơi, cụ có nằm ở đây thì cho con cháu xin nhất âm nhất dương. Nhược bằng không phải, xin cụ cũng cho con cháu biết” rồi tung hai đồng chinh lên, rơi xuống lòng đĩa. Nhất âm nhất dương. Bà lão thở phào: “Chắc chắn cụ nằm ở đây, cô ạ !”. Đào tiếp. Trời gần tối, hố thứ hai đã sâu hun hút mà vẫn chưa thấy tín hiệu gì. Anh Trường (lái xe) vốn ít nói suốt từ sáng chỉ quan sát mọi người làm, đến giờ mới lên tiếng: “Chưa thấy ngay đâu, phải đến mai cơ. Cụ còn thử thách con cháu đấy”. Trời tối. Nhà nhà đã lên đèn. Trước khi về để mai đào tiếp, tôi lấy 2 quả trứng còn lại ra thử. San đặt một quả, đậu. Quả kia, trước khi đặt, tôi cẩn thận cắm đầu to của chiếc đũa xuống đất, đầu nhỏ hướng lên trên. Đặt trứng vào, dính chặt. Chúng tôi hẹn hai người thợ đấu ngày mai làm tiếp. Trai và San điện về báo tình hình cho ở nhà yên tâm. Chỉ còn ngày mai nữa thôi. Quê nhà đang đợi từng giờ.
Sáng hôm sau (9.1.2005), Trai liên lạc được với ông Phụng. Ông hỏi: “Đào đến đâu rồi?”. Trai thưa đã sang hố thứ hai nhưng vẫn chưa thấy gì. Ông Phụng: “Phải đào lại hố thứ nhất, sâu hơn và mở rộng vào phía chân tường rào!”. Mọi người đang phân vân hỏi nhau tại sao phải sâu đến thế thì được một người dân địa phương đi ngang qua giải thích đây vốn là sườn đồi, suốt mấy chục năm người ta san lấp dần để trồng trọt, đất từ trên cao trôi xuống sau mỗi trận mưa nên phải bóc hàng mét đất bề mặt mới tới tầng đất gốc. Ông còn cho biết thêm phong tục nơi này khi chôn thường quay đầu về hướng chùa Hang, chân đạp núi Voi, nói xong bỏ đi thẳng. Chúng tôi chợt hiểu rằng đúng là phải có người thạo địa hình nơi này thì mới được, thầm cám ơn người đàn ông vô danh kia. Nguyễn Ngọc Trai thông báo tiếp chỉ dẫn của ông Phụng: “Đầu mộ ở phía có bụi chuối tây”. Nhìn kỹ cả khu vườn bạt ngàn là chuối nhưng duy nhất chỉ có một bụi chuối tây phía giàn trầu, ngay sát miệng hố thứ hai. Những thông tin đã trùng khớp về vị trí, hướng mộ. Đào thêm chút nữa, từ dưới hố sâu, người thợ đấu reo lên: A, có mạch đất khác. Lúc đó Long, Trai, Hiệu cũng đang dưới lòng hố, còn những người phía trên đều đổ xô lại. Giữa hai lớp đất gan gà màu vàng ươm hiện lên một mạch đất đen mỏng, dài khoảng hơn một mét, ước chừng ở dưới độ sâu 2 mét (sau này Hiệu bảo: khi chạm mạch đất đó cháu thấy tự dưng lạnh toát cả người). Ngay lúc ấy ông Phụng bất chợt gọi điện lên hỏi: “Thấy rồi phải không?”. Từ lòng đất một mùi hôi rất lạ xộc lên. Bắt chước bà lão hôm qua, tôi gieo một quẻ xin âm dương, khấn “Nếu quả là chúng con đã tìm được chú, xin cho chúng con biết”. Chỉ một quẻ được ngay. San đã chuẩn bị vải đỏ gói bọc hài cốt liền trải ra, chỉ có vài mẩu xương nhỏ, mấy chiếc cúc áo, còn lại là đất đen. Ông Phụng bảo cứ vét hết lớp đất ấy (thực ra đó chính là hài cốt bị tan biến, quả thật “thân cát bụi lại trở về cát bụi”). Tôi thầm thắc mắc sao ít xương cốt thế, lại không còn mảnh gỗ ván nào. Đang nghĩ vậy thì có người đến hỏi thăm. Ông Thảo chủ nhà giới thiệu đó là Bí thư chi bộ xóm Tân Hương. Ông bí thư trạc tuổi 60 kể rằng hàng chục năm trước ở chính chỗ này thỉnh thoảng lại đùn lên đống mối to tướng. Chợt hiểu, thế thì làm sao mà còn xương, còn gỗ, hơn nửa thế kỷ trôi qua. Tôi thỉnh thoảng lại gieo quẻ và khấn “Nếu đã lấy được toàn bộ hài cốt, xin chú cho biết”, quẻ đều báo chưa hết. Lần gieo cuối, vừa xin xong được nhất âm nhất dương thì tôi nghe người thợ đấu dưới hố sâu tự dưng reo lên “Cô ơi, hết rồi, chắc chắn không còn gì nữa đâu!” cứ như chú Liễn nhấp về báo tin cho biết vậy.
Dọn dẹp san lấp hố và làm lễ tạ xong, Kha đi gặp anh Thanh thông báo sự việc và xin phép cho đưa hài cốt về ngay để kịp an táng ở nghĩa trang liệt sĩ quê nhà. Chúng tôi vào nhà cảm ơn gia đình ông Thảo đã tận tình giúp đỡ, gửi tiền nhờ gia đình làm một cái lễ tạ ơn theo đúng phong tục, tiền nhờ người sửa sang lại vườn tược... Hơn 11 giờ, cả đoàn lên xe trực chỉ Hải Phòng. Trên đường về cảm thấy rõ một mùi hôi lạ thường vương vất, quấn quít trên xe, lòng tôi thầm nhủ “Đúng là chú Liễn rồi, không thể nào sai được”. Lúc qua Phả Lại dừng xe vào ăn cơm, San, Long, Trí thật chu đáo mỗi khi lên xuống đều kính cẩn khấn mời ông theo cùng. Đúng 14 giờ, hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn về đến nghĩa trang liệt sĩ xã Thụy Hương (huyện Kiến Thụy) được Đảng ủy, chính quyền và gia đình đón tiếp chu đáo, làm lễ an táng trọng thể cùng ngày. Sau 54 năm kể từ khi hy sinh, chú Liễn tôi đã trở về nằm yên ấm trên mảnh đất quê hương.


Lễ truy điệu liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn được tổ chức trọng thể chiều cùng ngày 9.1.2005, đưa ông về yên nghỉ tại nghĩa trang quê nhà sau gần 50 năm

Có kết quả tốt đẹp này, chúng tôi xin được cảm tạ tấm lòng tốt của bà con xóm Tân Hương, xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; của gia đình ông bà Thảo và bà Mai Trung Lâm, các anh Đỗ Ngọc Văn, Nguyễn Văn Thanh, anh Định; ông Khánh, ông Phất (Thành ủy Hải Phòng) cùng nhiều người vô danh khác. Đặc biệt xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ông bà Hanh (con cụ Nguyễn Thị Năm), cô đồng Hà, sư cụ chùa Hang, ông Nguyễn Đức Phụng và Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, nếu không có sự giúp đỡ tận tình của các vị chắc chắn gia đình tôi không thể tìm được người thân.
Tất cả những gì chúng tôi đã trải qua, đã thực hiện và chứng kiến là hoàn toàn có thực. Có đôi chút ngẫu nhiên, trùng lặp kỳ lạ rất khó tìm lời giải đáp. Chúng tôi cũng như bạn đọc hãy cứ tin rằng quanh ta còn rất nhiều điều kỳ diệu, nó tự nhiên như cuộc sống vậy, chỉ có điều ta chưa hiểu hết mà thôi.

NGUYỄN THỊ NGỌT - NGUYỄN THÔNG

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2009

Vàng hay không vàng?


Thay mặt cho nhân dân bị bóc lột, tôi đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không dân dụng và Vietnam Airlines thử nghiệm 1 lần thôi chuyến bay theo đường bay vàng (kinh tuyến 106 độ đông), hay dở thế nào sẽ bộc lộ ngay, cãi qua cãi lại mãi, mệt đít.

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2009

Chẳng vội mừng

Ngày 30.11.2009, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dõng ký ban hành quy định mới nhất liên quan đến sân golf, cụ thể cấm tiệt việc sử dụng đất lúa hai vụ để làm sân golf. Mới nghe qua, thấy sướng. Nhưng hỡi ôi, đến khi ông thủ tướng quyết định dứt khoát được như vậy thì cái loại sân chết tiệt ấy đã phủ khắp nước rồi, mà toàn đất bờ xôi ruộng mật. Quy định cũng chỉ cấm lấy đất ruộng làm sân golf thôi, còn bọn cá mập nó lập dự án sân golf nhưng lại câu kết với nhau không làm sân (chúng tôi có vi phạm quy định đâu) mà xẻ ra phân lô bán nền, xây biệt thự (như sân golf Long Thành ở Đồng Nai vậy), ông có cấm được không? Hàng trăm ngàn nông dân bị mất đất bởi sân golf hiện chưa biết sống thế nào, chỉ béo mấy anh nhà giàu và quan chức đú đởn với golf. Lại nhớ cách đây mấy năm, hàng trăm nông dân huyện Đông Anh (Hà Nội) đứng ra ngăn cản Ban tổ chức không cho làm lễ động thổ sân golf trên đất ruộng hai vụ của họ, 3 người bị công an bắt, quy tội cầm đầu, gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ... Họ bị xử tù, gia đình tan tác, chả biết bây giờ đã được thả ra chưa? Golf đúng là thứ đại họa của nông dân. Bây giờ ông thủ tướng mới nhận thấy điều ấy thì cũng hơi muộn nhỉ.

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

Viếng bạn Đặng Ngọc Khoa

Chiều nay 2.12, nghe tin bạn đồng nghiệp Đặng Ngọc Khoa không vượt nổi mệnh trời, thấy buồn thương cho bạn. Hắn nằm ngoài Đà Nẵng cũng đã lâu, bệnh ung thư quái quỷ làm hắn đau đớn, cũng muốn ra thăm bạn lắm nhưng ác nỗi... không có tiền (cha bố đồng tiền). Mình làm báo nhưng nghèo, cũng nghèo như hắn, giống nhau ở chỗ tính ương bướng, thẳng thắn, thấy chướng tai gai mắt là quật, các lãnh tụ không ưa, triều nào cũng vậy. Lại nhớ hồi năm 2000, hai đứa đi Phan Thiết (Bình Thuận) dự hội nghị toàn quốc về cây điều, ở chung phòng tâm sự biết bao điều, giờ có cảm giác như vừa mới xảy ra. Ừ, trời gọi thì đi cho thanh thản, đời cũng lắm chuyện buồn, chả cần phải luyến tiếc níu kéo gì. Khoa kém tuổi mình nhưng có nhiều cái hắn từng trải đáng nể. Thôi, mày đi, như người ta nói, sang thế giới bên kia, cầu chúc bạn mình nhập tịch định cư nơi đó dễ chịu hơn cõi đời trần tục này.
Viếng Khoa câu đối, thay cho nỗi lòng:
Múa bút bao năm, làng báo chẳng quên người viết BÃO
Mài nghiên mươi bận, bạn bè vẫn nhắc kẻ mê VOI
(Ghi chú: Ở báo Thanh Niên, Khoa là phóng viên chuyên viết về voi, voi Bình Thuận, voi Quảng Nam, voi Đồng Nai; sau này ra Đà Nẵng, tự học thêm tiếng Anh thông thạo, chuyên viết về bão, sử dụng tài liệu nước ngoài rất chuẩn xác)

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2009

Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng tự ra khỏi Đảng

Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng
Thời thanh niên, lứa chúng tôi đã được đọc những tác phẩm đấy chất lính của anh bộ đội trẻ Phạm Đình Trọng, nhất là những truyện ký về hải quân. Nghe tin ông tự ra khỏi Đảng (đã có gần 40 năm tuổi Đảng), tôi cũng muốn tìm hiểu xem sao. Và đây là Thư thông báo của ông đại tá văn sĩ.

Kính gửi:
- CHI ỦY VÀ CHI BỘ 4
- ĐẢNG ỦY PHƯỜNG 15 QUẬN TÂN BÌNH TPHCM
Tội là Phạm Đình Trọng, nhà văn, là đảng viên Cộng sản lớp Hồ Chí Minh từ 19.5.1970. Đến nay, 20.11.2009, tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng. Thiếu vài tháng nữa, tôi tròn 40 năm là người Cộng sản. Từ lúc tự nguyện đứng vào hàng ngũ Cộng sản, đến tự rút ra khỏi đảng là một quá trình chuyển biến trong tôi, từ nhận thức bằng tình cảm sang nhận thức bằng lí trí và cũng là quá trình chuyển biến của chính đảng Cộng sản, từ ý chí vì dân, vì nước sang ý chí chỉ vì sự tồn tại của đảng. Tôi xin trình bày về quá trình hai chuyển biến đó, một chuyển biến thuận, tất yếu, hợp qui luật phát triển và một chuyển biến nghịch, tiêu cực, thóai hóa.
I. TÌNH CẢM ĐƯA TÔI ĐẾN LÍ TƯỞNG CỘNG SẢN
Sinh ra trong không khí sôi sục của cuộc cách mạng đã khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa những người cộng sản lên nắm chính quyền. Cuộc cách mạng ấy như cũng khai sinh ra thế hệ chúng tôi, một thế hệ của cách mạng, của nhà nước mới. Cả tuổi thơ, cả tuổi cắp sách đến trường của tôi được sống trong không khí thần thoại của những câu chuyện về lớp người Cộng sản tiền bối chiến đấu hi sinh vì dân, vì nước. Lí tưởng của những người Cộng sản ấy đã trở thành lí tưởng, thành lẽ sống của thế hệ chúng tôi. Cốt cách lương thiện và dũng cảm của những người Cộng sản ấy cũng là khuôn mẫu cho cốt cách của lứa chúng tôi.
Rời trường trung học vào bộ đội rồi đi vào cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược, chúng tôi lại gặp những người Cộng sản bằng xương bằng thịt vô cùng cao đẹp ở mọi nơi gian nan ác liệt. Máy bay Mĩ tập trung đánh hủy diệt một trận địa pháo cao xạ ở miền Tây Quảng Bình. Người Cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Viết Xuân bị đạn bắn nát đùi vẫn bám thành công sự phất lá cờ đỏ dõng dạc chỉ huy: Nhằm thẳng quân thù, bắn! Với cuộc sống anh hùng đó, với lí tưởng đã có, chúng tôi trở thành người Cộng sản như là lẽ đương nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, đảng phát động đợt kết đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Ngay sau lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi viết đơn xin vào đảng. Lễ kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh đầu tiên của cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh Thông tin tổ chức đúng vào ngày 19. 5. 1970.
Con vào đảng vào ngày sinh của Bác
Mười chín, tháng năm, năm một ngàn chín trăm bảy mươi
Ba mươi tuổi Bác thành người Cộng sản
Để cho con hai mươi sáu tuổi được là đồng chí của Người
Thơ tôi ghi nhận ngày tôi trở thành người Cộng sản. (Sau này, chuyển sinh họat đảng qua nhiều nơi, ngày vào đảng của tôi bị ghi sai thành 12. 5. 1970)
Vào đảng, rồi tốt nghiệp trường Sĩ quan Thông tin, đeo ba lô đi trong bạt ngàn màu xanh Trường Sơn vào mặt trận Tây Nguyên, tôi viết về đảng:
Nâng niu sự sống trong lòng
Đất là mẹ của trái tròn mầm xanh
Bao nhiêu trong mát ngọt lành
Đất chắt chiu để cây cành đơm hoa.
Đảng là đất mẹ bao la
Ta là chồi biếc đó mà, hỡi em!
Lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đảng đã đồng hành cùng dân tộc. Đặt dân tộc lên trên, đảng đã chấp nhận những hi sinh to lớn vì độc lập dân tộc. Với nhận thức đó, tôi đến với đảng hòan tòan bằng tình cảm của một trái tim khao khát lí tưởng cống hiến. Với tư cách người Cộng sản, tôi đã vững vàng vượt qua mọi gian khổ, ác liệt, đi qua suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt để viết về thế hệ của tôi, viết về thời đại của tôi và tôi trở thành nhà văn quân đội.
II. LÍ TRÍ CHO TÔI NHẬN THỨC LẠI
1. Từ cơ sở đảng cho tôi sự thức tỉnh
Con người được thử thách, tôi luyện trong chiến tranh, năng lực được khẳng định bằng trang viết cho tôi một tư thế của khí phách và một cái nhìn biện chứng, thấu đáo. Với tư thế ấy tôi đã lên tiếng thẳng thắn chỉ ra sự mua quan bán chức của ông Thứ trưởng kiêm Tổng biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam Tào Hữu Phùng và ông Phó tổng biên tập Đào Ngọc Hùng đã đưa một người bị đào thải ở nơi khác và không viết nổi một mẩu tin lên trưởng chi nhánh phía Nam Thời báo Tài chính Việt Nam dẫn đến những đổ vỡ, bê bối lớn và làm tê liệt chi nhánh phía nam đến tận hôm nay. Đầu tư lớn để có chức thì phải triệt để dùng chức nhanh chóng thu lại vốn đầu tư. Trong lúc nhiều tờ báo cảnh báo việc hủy diệt môi trường của công ty Vedan thì ông trưởng chi nhánh Thời báo Tài chính không viết nổi một mẩu tin đã cùng một cộng tác viên đến Vedan viết bài đăng Thời báo Tài chính Việt Nam tấm tắc ngợi ca môi trường Vedan trong lành. Sức mạnh và quyền uy của cả một đảng ủy cơ quan đại diện Bộ Tài chính được huy động trấn áp, truy bức tiếng nói sự thật của tôi để việc mua quan bán chức trót lọt và tồn tại đến tận hôm nay! Đi xa hơn, họ còn vội vã, độc đoán chuyển tôi về sinh hoạt đảng tạm tại nơi cư trú để họ thông qua mau lẹ việc kết nạp đảng cho người mua chức, giúp người mua chức có được chuẩn mực quan trọng của chức danh.
Sự việc trên không phải là cá biệt của cơ sở đảng. Trong lúc nước còn nghèo, dân còn khổ, lòng nhân đạo cả thế giới còn phải dồn về Việt Nam làm từ thiện giúp đỡ người nghèo thì vẫn có những quan chức, đảng viên mang cả triệu đô la đi đánh bạc và sống sa đọa nhưng ở chi bộ họ vẫn được xét là đảng viên bốn tốt!
Bây giờ đảng ở cơ sở, đảng ở cấp thấp là vậy đó! Còn đảng ở cấp cao? Đó là những tín điều, những chủ trương ngược với lợi ích dân tộc!
2. Vì tín điều Cộng sản, vất bỏ lợi ích dân tộc
A. Đưa giai cấp lên trên dân tộc làm cho dân tộc tan rã, li tán, suy yếu
Điều lệ đảng Cộng sản Việt Nam ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Giai cấp công nhân là một khái niệm quá chung chung, rộng lớn trên phạm vi thế giới, chỉ có định tính mà không có định hình vì thế cũng khá trừu tượng, không xác định được không gian, không ổn định trong thời gian, không có bản sắc văn hóa riêng và giai cấp công nhân cũng chỉ mới xuất hiện vài trăm năm gần đây cùng với sự xuất hiện của máy hơi nước, máy phát điện. Với Việt Nam, giai cấp công nhân lại càng mới mẻ, mới có từ đầu thế kỉ trước cùng với sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Công nhân chỉ là một hình thái lao động của cả loài người, không của riêng dân tộc nào. Trong khi đó dân tộc là một khái niệm thiêng liêng, là hồn cốt của mỗi con người tồn tại trên thế gian này. Dân tộc là một thực thể đã tồn tại hàng ngàn năm, có không gian sinh tồn được xác định bằng lịch sử, bằng công pháp. Dân tộc có bản sắc văn hóa, tinh hoa văn hóa riêng. Mỗi dân tộc có mặt đến hôm nay đều phải có một tinh hoa văn hóa không thể bị đồng hóa với nền văn hóa khác. Nhiều dân tộc đã tạo nên những nền văn minh rực rỡ đưa loài người bước những bước dài trên đường tiến hóa. Văn hóa dân tộc là hạt nhân tập hợp cả cộng đồng tạo nên dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới góp phần làm rạng rỡ, lung linh thêm phẩm chất NGƯỜI của Nhân loại bằng văn hóa của dân tộc mình. Đơn vị của một cộng đồng người là dân tộc chứ không phải là giai cấp. Không cộng đồng nào có mặt trong gia đình Nhân loại với danh xưng giai cấp công nhân!
Đưa giai cấp công nhân lên trên hết, trở thành chủ thể, điều lệ đảng Cộng sản đẩy dân tộc xuống cuối cùng là sự bất công phũ phàng. Trong thực tế, sự đối xử của đảng Cộng sản với dân tộc còn là sự phủ nhận cay đắng.
Chống ngoại xâm, đưa ra mục tiêu giải phóng dân tộc là đảng Cộng sản đã đồng hành cùng dân tộc, điều đó giúp đảng Cộng sản có sức mạnh vô địch. Nhưng cùng với chống ngoại xâm, với học thuyết chuyên chính vô sản của tín điều Cộng sản, đảng Cộng sản còn tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp vô cùng khốc liệt đánh thẳng vào khối đoàn kết dân tộc, đánh tiêu diệt những tinh hoa của dân tộc!
. Cải cách ruộng đất danh nghĩa là đánh đổ tầng lớp bóc lột ở nông thôn nhưng những gì diễn ra đã chứng tỏ rằng đó là cuộc phát động gây hận thù ngay trong lòng dân tộc. Lấy bạo lực chuyên chính vô sản đánh vào giá trị văn hóa, đánh vào đạo lí gia đình, đánh vào văn hóa làng quê, đánh cả vào tín ngưỡng tâm linh, những nền tảng của văn hóa dân tộc.
. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đã phá sạch cơ sở vật chất của nền sản xuất công nghiệp tư nhân vừa hình thành, biến những người chủ giỏi tính toán làm ăn, biết gây dựng cơ đồ thành trắng tay, thành người làm thuê bằng cơ bắp. Dân tộc Việt Nam thông minh, thao lược đã tạo ra những doanh nhân tài ba Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô . . . ngang sức đua tranh với những nhà tư sản của nước Pháp công nghiệp phát triển để bắt đầu xây dựng một nền công nghiệp tư nhân phát triển ở Việt Nam. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc không những phá sạch cơ sở công nghiệp tư nhân ban đầu đó mà còn chối bỏ, kìm hãm tài năng, trí tuệ nhân dân. Chỉ sử dụng cơ bắp làm thuê làm cho nền kinh tế miền Bắc thụt lùi hàng trăm năm. Tiếp tục cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã đưa kinh tế cả nước xuống vực thẳm, đưa dân tộc Việt Nam thông minh, tài giỏi tới nghèo khổ, hèn mọn. Dòng người bỏ nước ra đi kéo dài trong nhiều năm đến sống vạ vật ở những trại tị nạn khắp thế giới là hình ảnh của sự hèn mọn ấy. Đổi mới, trở lại kinh tế thị trường chỉ là trở lại cung cách làm ăn thông thường, phổ biến của cả thế giới, trở lại với tư bản, tư doanh mà trước đó đã hai lần bị cải tạo, bị xóa sổ tức tưởi. Trở lại kinh tế thị trường là sự xóa bỏ đầu tiên nguyên lí cơ bản của tín điều Cộng sản đã cứu được nhân dân khỏi sự khốn cùng, cứu được nhà nước khỏi sụp đổ.
. Vụ án Nhân văn Giai phẩm là sự dằn mặt của chính quyền công nông, của nhà nước chuyên chính vô sản với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ. Nhân văn Giai phẩm chính là cuộc cải cách ruộng đất đối với trí tuệ đã dập tắt thê thảm những quầng sáng rực rỡ nhất của trí tuệ Việt Nam, vùi dập những trí tuệ Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo…, vùi dập tàn nhẫn những tinh hoa sáng nhất của dân tộc.
Suốt chiều dài lịch sử, luôn phải đối đầu với những lực lượng xâm lược khổng lồ nhưng dân tộc Việt Nam nhỏ bé vẫn tồn tại được đến hôm nay là nhờ tâm hồn Việt Nam đã tạo nên nền văn hóa Việt Nam đặc sắc, sâu đậm, bền vững cùng núi sông Việt Nam, là nhờ ý thức dân tộc mạnh mẽ sâu đậm trong mỗi con người Việt Nam. Nền văn hóa dân tộc ấy, ý thức dân tộc ấy đã gắn kết dân tộc Việt Nam thành một khối vững mạnh, tồn tại qua ngàn năm Bắc thuộc, qua trăm năm thực dân thống trị.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà giàu ở nông thôn, nhà tư sản ở thành phố, quan lại triều đình cũ, trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước đều tham gia kháng chiến đánh giặc. Là những người giỏi giang, thành đạt, là tinh hoa của dân tộc, họ có sức lôi cuốn, tỏa sáng, có vai trò rất to lớn trong đánh giặc giữ nước, họ càng vô cùng cần thiết trong xây dựng đất nước. Nhưng tín điều Cộng sản đưa giai cấp công nhân lên làm chủ thể, lấy giai cấp nông dân nghèo là đồng minh, coi các thành phần khác là đối lập, cần đánh đổ, cải tạo, chuyên chính. Những cuộc đánh đổ (cải cách ruộng đất), cải tạo (công thương nghiệp tư bản tư doanh), chuyên chính (Nhân văn Giai phẩm) là những đòn chí tử, liên tiếp đánh vào khối đoàn kết dân tộc.
Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng của ý thức hệ Cộng sản mà là chiến thắng của ý chí dân tộc, của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng của miền Bắc với miền Nam mà là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam. Đặt dân tộc lên trên, chúng ta sẽ có một tiềm lực vô cùng to lớn để xây dựng đất nước. Cơ sở vật chất kĩ thuật và lực lượng lao động cao cấp còn ở lại miền Nam là một vốn quí, một bệ phóng thuận lợi để nhanh chóng cất mình bay lên cùng những con rồng kinh tế châu Á. Nhưng giành hết chiến thắng của dân tộc về đảng, những người Cộng sản trở nên kiêu ngạo, tự mãn, lại càng tư tin vào tín điều Cộng sản! Lại say sưa đấu tranh giai cấp! Lại cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh! Lại hủy hoại khối lượng lớn của cải, làm tan hoang những cơ sở vật chất của một nền sản xuất công nghiệp tương đối phát triển! Lại hận thù dân tộc, đẩy hàng vạn người đã tham gia chính quyền cũ vào những trại cải tạo, gây chia rẽ, li tán trong lòng dân tộc! Thời cơ mất đi! Tiềm lực vô cùng quí giá để phát triển đất nước cũng mất đi! Đất nước bị đẩy đến tận cùng quẫn bách. Kinh tế kiệt quệ! Lòng người li tán! Thế giới cấm vận! Năm 1975, kinh tế Việt Nam ngang ngửa với các nước Đông Nam Á thì nay tụt lại sau vài chục năm!
Nỗi đau li tán còn khoét sâu trong lòng dân tộc lại lộ ra mỗi khi lãnh đạo nước ta đến Mĩ đều có những đoàn người của cộng đồng người Việt ở Mĩ rầm rộ biểu tình chống đối. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phải đi cổng sau vào Nhà Trắng gặp Tổng thống Mĩ vì cổng trước bị đoàn người biểu tình phong tỏa! Đau quá! Người đứng đầu nhà nước đã đánh thắng Mĩ phải đi cổng sau Phủ Tổng thống vào gặp người đứng đầu nước chủ nhà thua trận! Nỗi đau li tán dân tộc dẫn đến nỗi đau quốc thể! Đặt giai cấp lên trên dân tộc nên đến nay đất nước thống nhất đã hơn 30 năm mà vẫn chưa thể hòa giải, hòa hợp dân tộc!
Nước Đức thống nhất sau Việt Nam 14 năm rưỡi. 9.11.1989 bức tường Berlin dài 155 kilomet do nhà nước Cộng sản Đông Đức xây bị dân Đức phá sụp đổ. Hai miền Đông – Tây nước Đức ôm chầm lấy nhau. Nước Đông Đức Cộng sản bị xóa sổ, bị gom về với Tây Đức Tư bản. Đặt dân tộc Đức vĩnh hằng lên trên ý thức hệ nhất thời, không có một trại cải tạo nào dành cho viên chức chính quyền Đông Đức. Địa lí Đức thống nhất. Dân tộc Đức cũng thực sự thống nhất, hòa hợp. Bà Angela Merkel Thủ tướng nước Cộng hòa Liên bang Đức hiện nay vừa tái trúng cử nhiệm kì thứ hai là đoàn viên thanh niện Cộng sản Đông Đức trước đây.
Nỗi đau li tán của dân tộc Việt Nam còn âm ỉ, nhức nhối đến hôm nay là hậu quả tất yếu của kiên trì tín điều Cộng sản đưa giai cấp lên trên dân tộc, là trách nhiệm không thể chối bỏ của đảng Cộng sản.
B. Đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích dân tộc
Với chuyên chính vô sản tạo ra những cuộc đấu tố, thanh trừng thảm khốc, với nền kinh tế kế hoạch duy ý chí bóp nghẹt sản xuất và cuộc sống, với nền văn hóa nghệ thuật khuôn phép, xơ cứng, triệt tiêu tìm tòi, sáng tạo, sau gần nửa thế kỉ tồn tại, hệ thống Cộng sản thế giới khuôn xã hội con người vào khuôn mẫu ra đời từ thế kỉ 19 trái tự nhiên, tất yếu phải sụp đổ. Từ một hệ thống Cộng sản thế giới trải rộng thành một khối lớn từ châu Âu sang châu Á nay chỉ còn năm nước Cộng sản như năm hòn đảo chơi vơi và Việt Nam là một hòn đảo chơi vơi và nhỏ bé. Đây chính là lúc phải bừng tỉnh để nhận lại đường, từ bỏ sự trì trệ, trái tư nhiên, đưa đất nước trở lại dòng chảy tiến hóa, cùng nhịp bước với sự phát triển của loài người. Làm việc này không phải chỉ vì đất nước, vì dân tộc mà trước hết vì chính đảng Cộng sản để đảng thoát khỏi xơ cứng, trì trệ của những tín điều đã bị thực tế cuộc sống bác bỏ, đã bị lịch sử chứng minh là sai trái, để đảng Cộng sản vẫn giữ được vai trò lãnh đạo bằng lòng tin và sự gửi gắm của nhân dân, chứ không phải bằng điều 4 của Hiến pháp, không phải bằng bạo lực chuyên chính vô sản. Nhưng đảng ở cấp cao đã không làm được như thế! Không có sự nhạy bén, năng động của tư duy công nghiệp để thắng sức ỳ của tư duy nông nghiệp thô sơ, không có sự mẫn cảm và sáng láng của trí tuệ và tài năng tạo ra bước ngoặt cần có cho dân tộc, vẫn kiên trì với những tín điều Cộng sản, những người lãnh đạo đảng ở cấp cao đã bình thản neo đất nước ta, dân tộc ta trên hòn đảo chơi vơi. Để tồn tại được trên hòn đảo chơi với đó, đảng đã thực hiện hai điều ngược với quyền lợi nhân dân và dân tộc.
. Bạo lực chuyên chính vô sản lại được sử dụng với nhân dân
Nhân dân có tiếng nói xây dựng, đóng góp, nói tiếng nói bức thiết của cuộc sống, tiếng nói vì lợi ích chính đáng của người dân nhưng không thuận tai đảng, không phù hợp với lợi ích của đảng, có hại cho sự tồn tại của đảng thì nhân dân nói tiếng nói đó liền bị đẩy sang phía kẻ thù “âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch”, phải chuyên chính! Đẩy nhân dân trở thành kẻ thù, hàng loạt vụ bắt bớ đã diễn ra, hàng loạt cuộc đấu tố dựng tội tàn nhẫn, hàng lọat phiên tòa đã tuyên những bản án khắc nghiệt. Chuyên chính vô sản đã gây ra Cải cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Vụ án Nhân Văn Giai phẩm, Vụ án Xét lại chống đảng, đã chà đạp lên số phận bao người trung thực, tài giỏi, gây nỗi kinh hoàng cho dân tộc, gây thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước. Những cuộc bắt bớ, đấu tố đang diễn ra là cuộc cải cách ruộng đất kinh hòang năm nào vẫn đang âm thầm tái diễn đến tận hôm nay! Sức mạnh tạo ra bằng lòng tin mới là sức mạnh trường tồn, vô tận. Đó là sức mạnh của lẽ phải, của nhân nghĩa, của lòng người. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi). Sự nhân nghĩa tạo ra sự yên dân, tạo ra sức mạnh trường tồn. Sức mạnh của bạo lực là sức mạnh nhất thời, sức mạnh nghịch đạo. “Cái còn thì sẽ còn nguyên / Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” (Trần Đăng Khoa) Sức mạnh bạo lực ngự trị ở xã hội yên hàn là sự bất ổn lớn của cuộc sống, là nguy cơ lớn cho dân tộc.
. Liên minh thua thiệt với Trung Quốc
Là một đảng nhỏ bé, lại theo đuổi chủ nghĩa quốc tế vô sản, đảng Cộng sản Việt Nam muốn tồn tại không thể thiếu thành tố quốc tế. Suốt quá trình tồn tại trước đây, đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết là niềm tin, là chỗ dựa vững chắc. Đảng Cộng sản Liên Xô giải tán. Nhà nước Xô Viết tan rã. Mất chỗ dựa tưởng như trường thành bền vững muôn đời, chơi vơi giữa thế giới đang ầm ầm biến chuyển không thuận cho Cộng sản, lại ảo tưởng rằng cùng là nước Cộng sản, cùng kiên trì con đường Xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc sẽ thay thế Liên Xô, giương cao ngọn cờ Cộng sản, làm chỗ dựa cho các nước Cộng sản còn lại, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã cố quên đi bản chất tham lam, bành trướng của Trung Quốc, cố quên đi bàn tay những người lãnh đạo Trung Quốc còn đỏ lòm máu nhân dân Việt Nam, cố quên đi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta do Trung Quốc phát động giết hại hàng vạn đồng bào chiến sĩ ta năm 1979, cố quên đi những cuộc chiến do Trung Quốc gây ra chiếm đất, chiếm biển đảo của ta. Cuộc chiến năm 1974 đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hòang Sa của ta. Cuộc chiến năm 1988 đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa của ta, giết hại gần 70 chiến sĩ ta. Cố quên đi để cầu thân với Trung Quốc, tìm chỗ dựa để đảng tồn tại, cố lấy lòng lãnh đạo Trung Quốc để giữ chiếc ghế quyền lực!
Nhìn thấy cuộc chiến tranh chống Mĩ của ta rất có lợi cho Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy vừa làm cho Mĩ sa lầy, yếu đi, để Trung Quốc vượt lên, vừa làm cho Việt Nam kiệt quệ càng phải phụ thuộc vào Trung Quốc, Trung Quốc liền trù tính thiết kế cuộc chiến tranh ấy theo công thức: Đánh Mĩ = Máu người Việt Nam + Vũ khí, trang bị Trung Quốc. Viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ rất to lớn, cấp bách. Sự phối hợp giữa Việt Nam với Trung Quốc trong đối sách quốc tế của cuộc chiến tranh cũng rất quan trọng, khẩn thiết. Khẩn trương, cơ mật như vậy nhưng lúc đó đâu có cần lập đường dây nóng, đường dây bảo mật! Thế mà ngày nay, trong mối bang giao hòa hiếu thông thường, trong cuộc sống hòa bình, dân chủ, công khai, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, Trung Quốc và Việt Nam lại phải lập đường dây nóng, đường dây bảo mật giữa lãnh đạo hai nước. Đầu tháng 6. 2008, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang Trung Quốc, đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước được đề xuất. Chỉ bốn tháng sau, tháng 10. 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Trung Quốc chính thức kí kết văn bản thiết lập đường dây này. Tháng 5. 2008, tên đường dây được gọi là đường dây nóng. Đến tháng 10. 2008 được gọi là đường dây bảo mật. Với người dân, đó là đường dây vô cùng bất bình thường. Từ đường dây bất bình thường đó mà bao nhiêu điều bất bình thường trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã xảy ra. Nhà nước Trung Quốc cứ ngang ngược lấn tới và nhà nước Việt Nam cứ cam tâm chấp nhận!
Trung Quốc sáp nhập quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào phủ huyện Tam Sa của họ. Học sinh, sinh viên Hà Nội liền mang cờ Tổ quốc, mang băng chữ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam tập hợp đông đảo nhưng ôn hòa và trật tự trước sứ quán Trung Quốc. Ngày 9.1.2008 có mặt ở Hà Nội, tôi đã được chứng kiến cuộc tập hợp của lòng yêu nước đó. Tôi đã được nghe tiếng hô Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Đó là tiếng nói của lịch sử dựng nước Việt Nam, tiếng nói của những người Việt Nam ở những thế kỉ xa xưa đã dong buồm cánh dơi ra nhận đất Hoàng Sa, Trường Sa, tiếng nói của Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam từ thế kỉ 18 đã vẽ chuỗi đảo cát vàng Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ Việt Nam, tiếng nói của đội binh Hoàng Sa được triều đình nhà Nguyễn phái ra giữ đất Hoàng Sa, tiếng nói của những người lính Việt Nam đã bỏ mình ngoài biển Đông trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Đó là tiếng nói của ý chí mọi thế hệ người Việt Nam khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với mảnh đất đã thấm đẫm máu xương tổ tiên người Việt, là tiếng nói vô cùng cần thiết trước tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Nhưng một lực lượng công an hùng hậu được huy động đến quyết liệt và nhanh chóng giải tán cuộc tập hợp của lòng yêu nước, bắt đi những người nồng nhiệt bộc lộ lòng yêu nước. Nhìn sắc áo xanh, áo vàng công an giăng kín che chở sứ quán Trung Quốc và sát khí đằng đằng xua đuổi, giằng kéo bắt bớ thanh niên ta, giật xé băng chữ Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam, trong lòng tôi nghẹn một nỗi đau xót, tủi nhục!
Ngày 17 tháng 2 năm nay, 2009, tròn 30 năm cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng là lần giỗ tròn thứ 30 hàng vạn đồng bào chiến sĩ ta đã ngã xuống để bảo vệ đất đai biên cương nhưng gần ngàn cơ quan thông tấn báo chí cả nước được lệnh không được nói một lời, không được viết một chữ nhắc đến sự kiện này, không được nhắc đến sự hi sinh bi tráng và cao cả của đồng bào chiến sĩ ta trong cuộc chiến giữ nước này! Trong khi đó, một nhà xuất bản cấp nhà nước của ta lại xuất bản tập sách dịch của Trung Quốc ca ngợi những người lính Trung Quốc đã sang chinh phạt Việt Nam! Ôi chao, để làm đẹp lòng những người lãnh đạo Trung Quốc, để có chỗ dựa cho đảng, chúng ta phải vô ơn và nhục nhã phỉ báng cả hương hồn liệt sĩ của chúng ta! Đảng tồn tại bằng cách đó, làm sao tôi có thể đứng trong đảng đó được!
Báo Du Lịch đăng bài tri ân chiến sĩ quân đội ta đã chiến đấu hi sinh để bảo vệ Trường Sa thì báo bị đình bản! Blogger viết blog bày tỏ sự bất bình trước việc dân ta đánh cá trên vùng biển của ta bị lính Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, cướp bóc, thì Blogger bị bắt! Còn báo Điện tử đảng Cộng sản Việt Nam sốt sắng tiếp sóng tuyên truyền cho Trung Quốc khẳng định Hoàng Sa là của Trung Quốc thì báo bình thản vô can!
Những sự việc đau lòng, tủi nhục này diễn ra hàng ngày nhiều lắm, không sao kể xiết!
Những nhượng bộ, thỏa hiệp để Trung Quốc vạch lại biên giới, phân chia lại vùng biển, chiếm đất, chiếm biển của ta. Trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 3. 3. 2009 tôi đã dẫn chứng về việc mất đất mất biển. Những hợp đồng kinh tế dễ dãi, ưu ái dành cho Trung Quốc. Đại dự án bô xít gây lo lắng bất an cho cả dân tộc về môi trường, về văn hóa, về an ninh quốc phòng và đại dự án bô xít không vì nhu cầu cấp bách của sự phát triển kinh tế đất nước mà chỉ vì năm 2001, vừa trở thành người lãnh đạo cao nhất của đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh ra mắt những người lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc, từ bô xít đột ngột xuất hiện trong tuyên bố chung Giang Trạch Dân – Nông Đức Mạnh: “Nhất trí thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trong dự án bô xít nhôm Đắc Nông”. Năm 2006, từ bô xít lại được nhắc lại trong thông báo về chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào: “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô xít Đắc Nông”! Thế là dự án bô xít Tây Nguyên trở thành “chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta” (lời tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng).
Căn nguyên vì sao Trung Quốc cần khai thác bô xít của Việt Nam và mối nguy hại của việc khai thác bô xít Tây Nguyên tôi đã nêu trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 3. 3. 2009. Điểm xuất phát của dự án bô xít Tây Nguyên là từ chuyến đi Trung Quốc của người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam và từ chuyến đi Việt Nam của người đứng đầu đảng Cộng sản Trung Quốc, sự nôn nóng thúc giục thực hiện dự án bô xít Tây Nguyên của phía Trung Quốc, sự phân tích thấu đáo của các nhà khoa học chỉ ra sự thua thiệt về kinh tế, mối nguy cơ về môi trường, về văn hóa, nỗi bất an về thế chiến lược quốc phòng của dự án bô xít Tây Nguyên đã cho thấy chủ trương lớn này của đảng không vì dân tộc Việt Nam! Cũng không vì dân tộc Việt Nam những đoàn người Trung Quốc lũ lượt đến Tây Nguyên, đào bới bô xít, đến Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa làm cảng biển, những người Trung Quốc sục sạo khắp rừng sâu núi thẳm với danh nghĩa thăm dò khai thác khoáng sản nhưng thực chất họ làm gì chúng ta không biết! Càng không vì dân tộc Việt Nam những đoàn ô tô tải sức chở trên 20 tấn đêm đêm ầm ầm chở khoáng sản hiếm, tài nguyên quí của nước ta kìn kìn chạy sang phương Bắc!
Vì mối giao hòa với Trung Quốc làm chỗ dựa bảo đảm cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam mà đất đai của tổ tiên không được bảo toàn, quyền lợi kinh tế đất nước không được coi trọng, đạo lí làm người, văn hóa dân tộc không được giữ gìn, cả đến quyền công dân, lòng yêu nước của nhân dân không được nhìn nhận thì tôi không thể là đảng viên Cộng sản như vậy. Tôi xin trở về làm quần chúng, làm dân thường, đau nỗi đau của dân, cùng dân lo toan giữ lấy nước.
III. ĐẢNG ĐANG THỰC HIỆN NHỮNG ĐIỀU TRÁI VỚI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trong đời sống chính trị của đất nước ta hiện nay, từ ngữ có tần số sử dụng cao nhất là từ Hồ Chí Minh. Thần thánh hóa Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn nói đi theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhưng trong thực tế đã hoàn toàn làm trái tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài viết “Ăn mày dĩ vãng – thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, tôi đã thẳng thắn nêu ra sự làm trái đó chính là để bảo vệ tư tưởng dân tộc rất sâu đậm của Hồ Chí Minh, bảo vệ hình ảnh bình dị và vô cùng gần gũi, thân thiết với dân của Hồ Chí Minh, những mong đảng tỉnh táo, dũng cảm nhìn nhận, xem xét lại. Hai cội nguồn sức mạnh của đảng là tinh thần dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là dân tộc. Khởi đầu con đường cách mạng của Hồ Chí Minh là dân tộc và đích đến của con đường ấy cũng là dân tộc. Như trên tôi đã nêu, đảng đã lấy giai cấp đánh tan rã, li tán, suy yếu dân tộc. Nay đến tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa ra học tập ồn ào nhưng từ lâu, đảng đã bác bỏ những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh. Bài “Ăn mày dĩ vãng” tôi viết về sự bác bỏ đó. Đó là đóng góp của tôi, một đảng viên với đảng, là bộc lộ lòng yêu nước, bộc lộ tấc lòng trung trinh với dân tộc, với tổ quốc Việt Nam thân yêu của tôi.
Nhưng trong cuộc họp tôi được mời tham dự với nội dung “Nghe UBKT/ĐU thông báo việc giải quyết tài liệu Ăn mày dĩ vãng – thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh“, ngày 13.11.2009, đảng ủy nơi tôi sinh hoạt đã kết luận bài viết của tôi “đã phủ định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã thể hiện rõ đồng chí không còn trung thành với đảng, với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Đó là kết luận áp đặt, khiên cưỡng, thiếu thiện chí với tôi và né tránh, không đủ dũng khí nhìn vào sự thật.
IV. LỜI KẾT
Tất cả những điều tôi trình bày ở trên bộc lộ sự thất vọng của tôi về đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Vì thế tôi xin từ bỏ đảng tịch đảng viên Cộng sản. Cuộc sống luôn vận động và phát triển. Tư tưởng con người cũng luôn vận động và phát triển. Không còn vận động và phát triển được sẽ bị cuộc sống đào thải. Tình cảm của tuổi trẻ đưa tôi đến với đảng Cộng sản. Hiểu biết của nhận thức và thực tế cuộc đời đưa tôi đến quyết định từ bỏ sự lựa chọn cảm tính của tuổi trẻ. Tôi đã tự nguyện vào đảng, nay tôi tự rút ra khỏi đảng cũng là việc rất bình thường, lành mạnh đối với đảng cũng như với riêng tôi. Đảng ủy cần nhìn nhận sự việc ở góc nhìn của sự vận động, là sự bình thường, sinh động của cuộc sống, không nghiêm trọng hóa sự việc để dẫn đến qui kết, truy bức tư tưởng.
Tôi cảm ơn.
Ngày 20 tháng 11 năm 2009
Người viết
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Nhà văn

Quá nhiều bức xúc

Tàu Ngư Chính 311 (tàu hải quân đội lốt) đang hoành hành trên biển quần đảo Hoàng Sa của VN

1. Lúc Hội nghị quốc tế về biển Đông do VN tổ chức, đang họp, có cả mấy nhà nghiên cứu Trung cộng dự, như Bộ Ngoại giao VN phán "đã thành công tốt đẹp" (chà, câu này nghe quen quen mấy chục năm nay) thì mấy anh ba Tàu đem ngay 2 chiến hạm khủng tới diễu võ dương oai ở Hoàng Sa và Trường Sa. Trong hội nghị không ai dám lên tiếng. Thậm chí một đại biểu Trung cộng dự hội nghị còn lếu láo nói rằng "cái mà VN gọi là Hoàng Sa, thực chất đó chỉ là mấy hòn đảo ven bờ của VN chứ không phải là HS thực tế đang do TQ chiếm giữ"; nghĩa là có 2 HS; thế mà cũng không ai phản đối. Nó bỉ mặt thế, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ; sao gọi là thành công tốt đẹp được?
Sợi dây này còn thắt cổ người dân Việt bao nhiêu năm nữa?


2. Ngày 28.11, anh chàng hiệp sĩ Nguyễn Văn Minh Tiến lại bắt thêm 2 thằng cướp giật, nâng tổng số vụ bắt cướp chỉ trong tháng 11 này là 3 vụ, tóm 5 thằng. Hóa ra một mình anh chàng Tiến hoạt động hiệu quả bằng cả đại đội, thậm chí tiểu đoàn công an. Nếu mỗi anh công an cứ 2 tháng bắt được 1 thằng cướp thì bọn cướp phen này hết đường làm bậy. Nhưng... À, phải nói thêm, Tiến ăn lương vợ, chả tốn xu nào của nhà nước (thì bọn cướp sợ), còn cả bộ máy công an đồ sộ tốn bao nhiêu tiền ngân sách (bọn cướp cười vào mũi, đek sợ). Tiến cứ hăng hái bắt cướp, bỉ mặt CA quá, nguy lắm.

3. Ông Trần Quốc Vượng, Viện trưởng Viện KSND tối cao trả lời báo chí vòng vo làm bực cả mình. Báo nó hỏi Thành ủy Cần Thơ chỉ đạo vụ án bà Ba Sương, vậy ý ông thế nào?, cứ loanh quanh, loanh quanh né tránh chả ra làm sao. Vậy thì ông ngồi ghế Viện trưởng tối cao làm đek gì. Biết thì bảo là biết, không biết bảo không biết, còn biết mà né tránh, bao che thì... về đi cày. Lại khổ nông dân phải nuôi thêm một ông bất tài vô dụng.

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009

Ngượng miệng (hay là sự tráo trở)

Trên tờ An ninh thế giới số ra ngày thứ bảy 17.10 có bài đọc xong thấy buồn cho sự đời. "Nhóm phóng viên" chắc theo sự chỉ đạo của tướng công an Hữu Ước, còn Hữu Ước theo sự chỉ đạo của ai, cấp nào thì chưa rõ, đã bôi gio trát trấu vào Pháp môn Làng Mai và thiền sư Thích Nhất Hạnh, từ đầu đến cuối chỉ gọi gọi xếch mé là sư ông, thậm chí vu cáo thiền sư quan hệ trai gái với sư nữ Thích Chân Không... Sao tờ báo ấy không ngượng miệng nhỉ, mới hồi nào, năm 2005, 2007, 2008 còn tung hô vị sư này, bốc đến trời, nhất là dịp Vesac Đại lễ phật giáo quốc tế tháng 4.2008 tại Hà Nội, nay quay ngoắt 180 độ, chửi như hàng tôm hàng cá, ngôn ngữ rặt đầu đường xó chợ. Phải chăng đấy là bản chất của nền báo chí Việt Nam? Trong vụ này, người thấm thía nhất về bản chất chế độ CS và phật giáo quốc doanh VN, có lẽ là thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2009

Nhất định thắng (Trần Dần)


Nếu muốn biết một giai đoạn xã hội, một chặng đường đời của một con người cũng như một thế hệ , chỉ cần đọc một bài này thôi là đủ. Bái phục Trần Dần. Xin ông nhận từ kẻ hậu sinh này 3 lạy (lúc ông đi trên phố Sinh Từ mưa rét thì kẻ hậu sinh mới chào đời được vài tháng).

Tôi ở phố Sinh Từ
Hai người
Một gian nhà chật,
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?

Tổ quốc hôm nay
tuy gọi sống hòa bình
Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt.
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta ?
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: có phi vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối xầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Dừng lại !
Đi đâu ?
Làm gì ?
Họ kêu những thiếu tiền, thiếu gạo
Thiếu cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
Khát gió, thèm mây…
Ô hay !
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ ?
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi ?
Sau đám mây kia
Là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng non bồng của Mỹ !
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư ? – Từng vạt áo – gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
- Không ! Hãy ở lại !
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
Non bồng Mỹ
Triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên ?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư sao chẳng nói thật thà ?
Chỉ là:
- Thiếu quả tim bộ óc !
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
- Nhưng sao bước rã rời ?
Sao họ khóc ?
Họ có gì thất vọng ?
Đất níu chân đi,
Gió cản áo quay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống.
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Trăng trối lại : – Mỗi lùm cây – hốc đá
- Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được ?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió dập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi ?
Ai ?
Dẫn đi đâu ? – Mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
- Khổ nhiều rồi !
Họ xấu số – chớ hành thêm họ nữa
Vườn tược hoang sơ – cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc ! Hãy giữ gìn cho họ !

Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ !
Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào thơ ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự nét đăm đăm
Nó đang mơ : – Nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi thống nhất phải đòi từ việc nhỏ
- Từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- Từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ.
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu ?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất ?
Sao chúng không chắp được cõi bờ ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị.
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Em ơi ! – Ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử ?
À cái tin trên báo – ừ em ạ
Chúng đang phải dậm chân đấm ngực !
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh gì ?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà :
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – Nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư ?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay em mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương
- Liệu có tuyển cử
- Liệu tổng hay chẳng tổng ?
- Liệu đúng kì hay chậm vài năm ?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng.
Ôi xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy.
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông !
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy lá cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được chiến tranh
giữ được hòa bình
Giặc cũ chết – Lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi ! chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có Lý ? Và ai có Lực ?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ !
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam !
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – Bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi
Dân ta ơi !
Những tiếng ta hô
Có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – Như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – Nhưng mà đi quả quyết…
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê : Đâm
Giống viên đạn : Xé
Giống bão mưa : Gào
Giống tình yêu : Thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin
Sao bỗng hôm nay,
tôi cúi mặt trước đèn ?
Gian nhà vắng chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta !
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có phút giây ngờ vực
Ai có lý ? Và ai có lực ?
Ai người tin ? Ai kẻ ngã lòng tin ?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
Cả nước
Cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương lao lực
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mặt anh nhìn thấy ! lạ lùng thay !
Tảng đá chặn đường này !
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực !
Anh đã nghĩ: Không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
Mà thống nhất Bắc Nam ư ?
Không không !
Đem sức gân ra !

Em ơi em !
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh dành cho cuộc đấu tranh giành Thống Nhất

(Viết năm 1955, đăng trong Giai phẩm mùa Xuân năm 1956)