(Lời chủ blog: Mình tôn trọng các bạn viết nên chỉ những chỗ nào cần biên tập lắm thì mới thò... con chuột, còn lại cứ để các bạn thoải mái. Xin cám ơn. Thông cào)
LÊ MINH ĐỘ (K17)
Nhận được giấy báo trúng tuyển vào đại hoc, mình sung sướng vô cùng! Thế là nguyện vọng được vào khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp đã toại nguyện. Quê mình ở Hoa Lư, Ninh Bình - nơi vùng đất của hai vua Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, nơi có chùa Non lồng bóng Nước, nơi có núi Cánh Diều phơi hình hài người thiếu nữ tóc xõa vai mềm, nơi có con sông Đáy bốn mùa trong vắt trong! Ngày tựu trường, anh trai cả đưa mình từ Ninh Bình lên Hà Nội bằng xe đạp. Lần đầu tiên bước chân lên thủ dô, ngơ ngác giữa bao phố phường lạ lẫm. Mình ở lại một ngày cùng anh trai thứ hai trong Cục Bản đồ. Hôm sau anh trai ở Hà Nội lại đạp xe chở em gái "tăng bo" tiếp chặng đường lên Bắc Ninh – chỗ sơ tán của trường trong những ngày tháng Mĩ ném bom miền Bắc, bằng B52 xuống Hà Nội tháng 12.1972.
Những ngày đầu, mình ở cùng chị Thụy- kế toán cũng là con gái Bắc Ninh rất xinh. Chị có giọng nói ngọt ngào tới mức ấn tượng! Cô Nội- nấu ăn thì có giọng nói chát chúa nhưng chăm sóc mọi người thì chu đáo chẳng ai bằng! Chú Bích- y tá chồng cô Nội người xương cao, giọng nói sang sảng mạnh như tiếng ngói vỡ, làm mình cứ tưởng là thầy giáo. Cô Thư - giáo viên ngôn ngữ có mái tóc cắt vuông trẻ trung với giọng nói nhỏ nhẹ miền Trung, ánh mắt hiền hậu thật dễ thương! Và đặc biệt là thầy Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Đỗ Đức Hiểu luôn với cái giọng Hà Nội gốc, ngọt ngào lịch thiệp như mật rót vào tai người nghe! Cái cười luôn tủm tỉm trên môi đầy hóm hỉnh của một nhà trí thức cỡ bự! Thầy dạy môn văn học phương Tây mà cho đến bây giờ mình vẫn không thể quên được hình ảnh của "Những chiếc ghế" mà Kapka đã miêu tả trong dòng văn học Hiện sinh phương Tây...
Đêm đầu tiên ở làng Sát Thượng, xã Yên Trung, xa gia đình, mình nhớ nhà quá khóc thút thít như con ốc nướng khiến chị Thụy và cô Thư không ngủ được phải dỗ ngon dỗ ngọt mãi. Sáng dậy, nghe chị Thụy kể, thầy Hiểu cười xoa đầu vặn vặn hai bím tóc mình và bảo: Đừng khóc! Hôm nay thầy cho em ăn cơm cùng với Hiệu bộ cho vui. Bữa cơm Hiệu bộ làm mình nhớ mãi, không thể nào quên cái hương cái vị, cái ngon cái ngọt của nó! Đó là một món canh lươn nấu chuối xanh do bàn tay đầu bếp chính là cô Nội chế biến. Mình ''ăn như chưa bao giờ được ăn'' và thấy ấm lòng hơn vì được dùng bữa cùng thầy chủ nhiệm khoa, cô giáo Thư và cảm thấy hãnh diện nữa. Hôm sau, lớp Văn K14 đi thực tế về có tổ chức một buổi gặp mặt để các anh chị báo cáo (khoe) những sáng tác mới của mình trong chuyến đi ở một làng khác (nếu mình nhớ không nhầm thì đó là làng Chóa) cách làng Sát Thượng khoảng 2-3 cây số. Các anh chị Văn trên mời thầy Chủ nhiệm khoa sang dự. Thầy Đỗ Đức Hiểu thấy mình ở nhà một mình sợ lại buồn nhớ nhà, lại khóc nên thầy tủm tỉm bảo: "Hôm nay thầy cho em đi cùng thầy tới dự với các anh chị Văn trên nhé". Trời mưa tầm tã. Hai thầy trò khoác hai mảnh áo mưa, xắn quần xách dép lội qua các cánh đồng từ làng Sát Thượng sang làng Chóa. Đường đi bờ vùng bờ thửa quanh co uốn lượn theo cánh đồng làng lúa đang thì con gái, trơn như đổ mỡ. Xa xa, từng đàn cò trắng đang chúi đầu bay trú mưa sà sát ruộng lúa. Mình bị ngã ngồi bệt xuống đường bùn đất lấm ướt hết mông quần láng đen may theo kiểu ống tuýp lúc bấy giờ. Thầy Hiểu cười, tiếng cười của thầy thành khúc, âm vang cả cánh đồng vắng trong mưa. Rồi thầy dặn: Em phải bấm chân thật sâu xuống đất thì không ngã". Đường đi đã bé, lại sống lươn, sống cá, khó mà không ngã được. Mình vừa đi sau thầy vừa lo! Thầy mà ngã như mình thì biết làm thế nào khi mà hai thầy trò đang ở giữa cánh đồng mưa như phủ bạc trắng xóa! Nhỡ thầy bị trẹo chân thì làm sao đây…? Đi mãi, hai thầy trò cũng tới được Chóa - địa điểm các anh chị Văn K14 đang hát hò, thổi sáo, ngâm thơ âm vang cả hội trường HTX. Buổi dự ấy, mình được thầy Đỗ Đức Hiểu giới thiệu với các anh chị K14: ''Đây là em Lê Minh Độ, sinh viên đầu tiên đã hăng hái đến sớm nhất của K17, vì em nhớ nhà, khóc nhiều quá nên thầy cho đi theo làm "vệ sĩ", nhưng ''vệ sĩ'' bị ngã bẩn hết quần, nay đã gột sạch ở ao rồi!'' Các anh chị được một bữa cười thoải mái. Còn mình thì bẽn lẽn, lúp xúp ngồi bén vào mép bàn ở cuối hội trường. Hôm ấy, được nghe chị Loan - cô gái gốc Hà Nội trắng trẻo cao ráo có nước da trắng mịn, đôi môi mỏng đỏ tươi thổi sáo hay lịm cả người. Chị Nhung ngâm thơ, anh Hải ''còm'' đọc thơ, các anh Ánh Hồng, Dương Kôn... cũng đọc thơ. Vừa nghe vừa uống nước chè xanh, ăn bánh quy xốp gai làm từ bột mì trộn với trứng gà thơm ơi là thơm. Kết thúc buổi họp, các anh chị mời thầy Hiểu phát biểu, sau đó đại diện lớp tặng hoa cho thầy. Hoa tươi được các anh chị mua từ Hà Nội đem lên. Khi nhận hoa, thầy gọi cả mình lên, trao luôn cho bó hoa và nói: "Thầy tặng lại sinh viên mới. Chúc em và các bạn K17 sức khỏe, vui và học tập tốt nhé". Cả hội trường vỗ tay huýt sáo cười vang tán thưởng. Khi hai thầy trò tạm biệt các anh chị lớp Văn K14 để về Sát Thượng, mình thấy túi xách hai quai của mình mang theo ai đã bỏ vào đấy rất nhiều bánh quy gai xốp- loại bánh được làm thủ công hồi đó- các anh chị đã kỳ công về tận Hà Nội thuê làm để mang lên đây liên hoan. Về đến Hiệu bộ, đưa quà cho thầy, thầy cười hiền hậu và nói: ''Thầy cho em mang về nhà trọ cho các bạn mới cùng ăn'' Không ngờ, cái ngày đó lại có nhiều duyên nợ với lớp Văn khóa 17 của chúng mình. Duyên phận cuộc đời mình đã gắn với một người mà mình được nghe anh đọc thơ hôm đó: Nhà thơ có bút danh Ánh Hồng - cái tên như con gái. Dương Kôn thì sau này mê Thanh Đạm như điếu đổ đến nỗi phải nhờ Ánh Hồng vẽ hộ khuôn mặt buồn của Đạm để tặng người yêu mà rốt cuộc vẫn không thành! Còn thầy Đỗ Đức Hiểu thì lại có một quãng đời còn lại cảm động đến rơi lệ! gắn bó mật thiết với trò Tân "hói"cho đến lúc lìa xa cõi đời. Người bạn trai hiền lành tốt bụng của lớp đã có lần chạy xồng xộc vào cơ quan mình, nắm tay lôi túa ra sân, dúi cho một nắm thiếp mời và giao cho mình trách nhiệm phải đi mời cho ''hắn'' bạn bè trong khóa đến dự đám cưới ''hắn''rồi chạy mất tăm tích. Tân ''hói'' lấy vợ muộn nhưng làm ăn kinh tế bây giờ thì vào loại tuyệt chiêu. Hắn là niềm tự hào của K17, nhưng nghe đâu có cô vợ trẻ, xinh đẹp giỏi giang làm hậu thuẫn nên mới nổi tiếng thế.
Người bạn đầu tiên mình gặp là anh Ma Duy Giang. Anh đi chiếc xe đạp Thống Nhất nam cao lêu đêu, vai khoác ba lô lều khều như thằng phi công Mĩ vậy. Biết anh là người dân tộc Tày, lại hiền như cục đất, như củ khoai củ sắn ở chiến khu xưa, nên mình không thấy sợ anh nữa. Người bạn của khóa 17 đến thứ hai là Hồ Thu Hiền- người phố Thắng, Bắc Ninh. Cô bạn này xinh đáo để. Cao ráo, dáng đi điệu đà uốn lượn, mái tóc dài óng mượt. Đôi mắt to đen rợp hai hàng mi cong vút. Thu Hiền nhìn ai là như thu hết hồn người ấy vào đôi mắt nó. Các ngày tiếp theo lần lượt là Ninh (mà sau này mình gọi là bố Ninh, sau khi ra trường Ninh bị bệnh trầm cảm. Mày đang ở đâu Ninh ơi!), là Hoa (sau này chúng mình gọi là dì Tễu, đã lấy được anh chồng đẹp trai, giỏi giang đóng đô ở Thái Nguyên - một gia đình đầy ắp hạnh phúc!), là Thanh Đạm - cô gái Hà Nam xinh đẹp có đôi mắt buồn sầm sập như đổ mưa (sau này mình gọi là mẹ Đạm), là Hương lớn người tròn lẳn, khuôn mặt búp bê thông minh, có dáng đi uyển chuyển từ trong ý thức (sau này mình gọi là em Vàng vì lớp có cả em Hương con), là Kim Dung - cô gái Vũ Thư, Thái Bình với giọng nói dịu ngọt rót vào tim các chàng, mái tóc mượt chấm ngang lưng (sau này mình gọi Dung là vợ), là Thu Hà mà chúng mình thường gọi là Mèo con có bố làm to hay cho chúng mình đi xe Mắc- Cô- vích, là Lập với cái tên Chuột con ngúng nguẩy có mái tóc dài chấm khoeo chân lúc nào cũng điệu đà như Công tước phu nhân Li-Da nhỏ nhắn của Ăngđờrây Bonkônski trong tiểu thuyết ''Chiến tranh và hòa bình'', sau đã là vợ yêu của anh Chiến “thương binh”, là Thu Thủy luôn trẻ thơ chúm chím bờ môi làm cho Hoàng Thanh Chương chết mê chết mệt, là Lan Quảng Bình với mi mi tau tau khó quên. Các bạn đọc đến đây đừng có tò mò nhé. Bí mật của phòng nữ Văn 2A đấy! Rồi tiếp đó là Chiến “khểnh'' đã từng cùng bọn mình khi đi thực tế Vĩnh Trụ, Nam Định dũng cảm chui vào ruộng mía bẻ trộm rồi dước bằng răng cho bọn mình cùng ăn no phềnh bụng, là Tửu - người Nam Định nổi danh “cầu tõm” mà đoàn đi thực tế Nam Định chúng mình đã được mục sở thị. Mình cứ nghĩ Tửu là con cháu nhiều đời của hai cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương bởi hắn có cái nhìn hóm hỉnh, thông minh, thường cùng mình và Minh Nguyệt, Đường, Viết (Hán Nôm) xếp hàng mua vé tàu về quê mỗi dịp nghỉ hè, nghỉ tết; là Sánh - cô gái đất Hà thành dáng người cao cao, mái tóc dài, dầy, đen mượt thường tết hai đuôi sam ngúng nguẩy đánh sang hai bên… mông như múa, chiều chiều thường cùng mình và các bạn tựa lan can tầng 2 hát những bài hát lãng mạn ''Trở về Su-ri-en-tô'', ''Con chim non'', ''Ngôi nhà trắng'', ''Ngôi sao ban chiều'', ''Ka- chiu-sa'', ''Mặt trời của tôi'', ''Đôi bờ'', ''Chiều Mátxcơva'', ''Tình ca du mục'' v.v.. còn bây giờ Sánh lại đoạt giải ''Á hậu'' bởi chiều cao lý tưởng, trở nên xinh đẹp lạ thường với mái tóc uốn xoăn bồng bềnh huyền bí; là anh Xuân “già” tóc xoăn tự nhiên như… Xuân tóc đỏ vậy, là anh Lập lớp phó phụ trách học tập với giọng ca vọng cổ khó quên, sáng nào cũng toét còi làm mọi người giật nẩy mình phải dậy đúng giờ lên lớp; là anh Khánh lớp trưởng có dáng đi chắc nịch, sừng sững như Từ Hải với nụ cười luôn trên môi, là anh Lệnh Năng lớp phó, dáng to cao với cặp môi dầy ấn tượng hay quát chúng mình theo cách nói ngọng là = nà của người Hải Phòng, vì tội đi học muộn nhưng sau đó lại cười sởi lởi tít cả mắt, là Huy Hoàng luôn lịch thiệp với chiếc áo "bay" không quân, chiếc đồng hồ ''Bôn dốt'', cặp da đen bóng luôn bên mình và giọng ấm áp, ngọt ngào, nồng hậu mỗi khi đọc thơ, đọc các trang tiểu thuyết làu làu không sai, không thiếu một từ (đáng nể), và bây giờ đang là giáo sư ở Nước Nga xa xôi ngàn trùng. Hoàng là niềm tự hào của lớp. Sĩ Đại thì thông minh, điềm đạm, am hiểu với nụ cười hiền từ, sau đạt tiến sĩ đã từng phụ trách tờ Nhân Dân chủ nhật và bây giờ là Tổng biên tập báo điện tử Doanh nhân Việt Nam toàn cầu; là Ngọc Vương với dáng đi lệch vai, hay đá bóng dưới sân, nay đã là giáo sư đầu đầy sạn học thức - niềm tự hào của chúng bạn; là Xuân Ba củ mỉ hay đỏ mặt bị bọn con gái dúi đầu dúi cổ trêu trọc (còn bây giờ sau hơn 30 năm, thời gian đã biến ''hắn'' thành nhà báo nổi tiếng với những trang viết đặc ''Xuân Ba'', thường được đi khắp thế giới với các nguyên thủ quốc gia, cũng đáng tự hào và đáng nể lắm lắm); là anh Tài Thuận sau là Bí thư đoàn của khóa với giọng nói nhỏ nhẹ thân thương đáng nhớ, luôn quan tâm đến mọi người; là, là... Chao ôi, làm sao kể hết ra đây. Mình không quên một ai đâu! Lớp văn, lớp ngữ, lớp Hán (nhưng các bạn của tôi ơi, Sánh nó bảo chỉ được viết 6 trang thôi, kẻo không có tiền in). Các ngày tiếp theo sau đó, các bạn đến thật đông vui, thế là hết nhớ nhà.
Những ngày ở Sát Thượng, cô Nội thường phân công chúng mình thay nhau đi chợ. Một tốp gồm ba người quang gánh đi chợ cách nơi ở khoảng 2km. Có lần mình, chị Mai Phương “cao kều” và ''dì Hoa Tễu'' được phân công đi chợ. Bọn mình nhận tiền chợ từ chị Thụy kế toán. Lần đầu tiên được cầm số tiền lớn như vậy, chúng mình vô cùng hãnh diện, sau đó là lo bị đánh rơi, lo bị mất cắp. Như ba cô thôn nữ Bắc Ninh thực thụ, cả ba nhún nhẩy gánh gồng theo các bà các cô trong làng đi chợ, băng qua cánh đồng làng lúa xanh đang thì con gái, nói nói cười cười! Đến chợ có tên là Chờ, hương vị đầu tiên mà chúng mình được ngửi là mùi bánh rán nóng của xứ Kinh Bắc! Chao ôi, sao mà hấp dẫn và thơm! Thèm quá, trong túi chẳng đứa nào có tiền cả. Chị Phương “kều” đưa ra sáng kiến bớt tiền của Hiệu bộ 2 hào để mua mỗi đứa một cái ăn cho đỡ thèm. Tiền bớt ấy, được chị "thăn" ở khoản mua cá. Bánh ăn thì ngon, nhưng sau đó, chúng mình cứ thấy áy náy, lo lắng, sợ sợ thế nào. Nhưng chị Mai Phương liền át đi: Có hai hào thôi mà! đáng gì! Thế là chúng mình như trút được nỗi niềm, lòng lại trong veo, vui vẻ gánh gồng thức ăn về Hiệu bộ giao cho cô Nội. Trên đường, ba đứa còn rẽ ngang, rẽ tắt, ngó nghiêng và thấy một quán có tên rất lạ: Phở Ngó! Ô hay! Hay là chỉ là quán để ngó vào một cái rồi đi? hay là? hay là? Bọn mình đặt ra bao câu hỏi rồi tự trả lời xem có đúng? Chị Phương “kều” lại khỏa đi: Thôi, thôi, lần sau rồi sẽ biết. Trên triền đê xanh ngằn ngặt, thoảng lại điểm xuyết những chấm vàng, chấm đen của những chú trâu, bò, bê gặm cỏ, nom như bức tranh thủy mặc Tàu. Cứ mỗi đoạn lại có một cái lô cốt thời thực dân Pháp xây để lại, với những cái lỗ đen ngòm dễ sợ. Cách đoạn lại có một quán nhỏ ven đê bán hàng cho người đi chợ, nào là kẹo dồi, kẹo đốp, kẹo vừng, bánh đa Kế, nước chè xanh thơm mùi chan chát. Bọn mình nhẩm nhớ, thầm hẹn để lần sau được phân công đi chợ, sẽ ''thưởng thức" tiếp.
Ngày ấy, cùng học với lớp có ba sinh viên nước ngoài người Rumani, Anbani. Tên của các bạn là: Va-xơ-kim, En-ve và An-vơ-ni. Mình nhớ rõ En-ve là tổ trưởng, đảng viên cộng sản. Va-xơ-kim là chàng trai bảnh nhất trong ba người, thì chỉ thích mượn vở của Hương lớn để chép bài giảng của thầy. Hắn ta nói cái giọng tiếng Việt bập bõm lơ lớ: "Toi rat thích vi vơ của co Hương viet dep rat dê đoc". Thực ra hắn thích vở của Hương lớn 50%, còn 50% thì thích người Hương lớn nữa, chúng mình biết thừa nhưng kệ. Chỉ tiếc thời ấy có lệnh cấm yêu người nước ngoài, nên “tình chỉ đẹp một cách dang dở” như thế, rồi bị chặn lại. Thật tiếc, phải không Hương lớn?
Những ngày này, máy bay B52 Mỹ thường lượn ngày, lượn đêm trên bầu trời Hà Nội. Có lần, đó chính là đợt đánh bom B52 xuống đường phố Khâm Thiên, đang ngủ, bọn mình phải túa ra vườn nhà dân với mỗi đứa một quần ngủ đông xuân trắng lóa tồng ngồng để chui vào hầm trú ẩn. Oái oăm thay, lại gặp ba ông bạn nước ngoài cũng đang hốt hoảng kêu lơ lớ: "Hầm của chúng toi đâu các cô" Bối rối quá, bọn mình liền đủn mông ba chàng chui vào hầm mình. Nhưng bọn Tây mông to quá, đủn mãi mới lọt cửa hầm chữ A. Còn bọn mình thì đành ngồi ngoài xem bộ đội ta bắn chọi nhau với B52 trên bầu trời đen ngòm! Vẫn lạc quan, tưng tửng, cười khúc khích vì mặc quần đông xuân trắng chạy ra hầm mà (chả là thời ấy quần đông xuân được phân phối, nên ai cũng có một chiếc).
Lớp học chúng mình là một nhà dân đã được đắp tường đất bao quanh. Đó chính là nhà Xuân Ba trọ. Không bàn ghế. Sách vở kê lên đùi, ngồi nghe thầy giảng bài về folklore. Đêm học, đói. Chúng mình thường được nhà chủ mời ăn ngô rang, lạc rang hoặc cháo ngồng rau cải ngọt lịm đến tận ruột gan tim phổi. Sáng sáng lên lớp, rủ gọi nhau í ới nhưng vẫn không quên ra giếng nước soi gương xem có vết nhọ, kẹp lại mái tóc dài mượt thời thiếu nữ đôi mươi. Đoạt kỷ lục soi gương nhiều nhất vẫn là Hương lớn. Trong khi soi, mình thấy Hương lớn còn tự nhoẻn cười, đôi môi quả nhót đỏ mọng chúm chím như muốn hôn ai. Có một điều đáng nhớ là chúng mình lúc đó đều hay mặc áo vải si mi li màu nâu cánh dán để ngụy trang cho máy bay nó đỡ phát hiện.
Sau ba tháng, B52 chào thua Hà Nội! Chúng mình được trở về trường chính ở Mễ Trì trong niềm vui chiến thắng của quân dân miền Bắc. Mình ở cùng phòng với Ninh, Đạm, Kim Dung, Hoa, Lập, Thu Hà, Hương lớn, Lan Quảng Bình, Thủy. Mười đứa ở chung thường gọi là phòng nữ Văn 2A, cùng với tất cả sinh viên K17 (Văn- Hán- Ngữ) và sinh viên các khóa khác học tập miệt mài và tiếp tục nhân tiếp những ''khoảng trời kỷ niệm'' suốt 5 năm đầy lãng mạn trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh! Rồi Sĩ Đại lên đường ra mặt trận, những lần tiễn quân chan chứa tình cảm đã làm Cao Kim Phương khóc, nước mắt chảy tràn trên giấy đọng thành những bài thơ tình thời chiến đầy lãng mạn! Bài thơ còn đó như vẫn còn mới nguyên ''Màu áo lính'' hôm nào!
Mình yêu tất cả các bạn và mong các bạn cũng đừng quên yêu quý mình nhé! Các bạn hãy hồi tưởng và cùng viết tiếp những khoảng trời kỷ niệm đầy ắp của chúng mình thời trẻ nhé!
Ôi! ngót bốn mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
Mùa đông 2011 - 2012
L.M.Đ
Chao ôi! Đọc bài viết của M.Đ. mà thấy nhớ cái thuở S.V.non tơ, trẻ trung và trong sáng...Thoắt cái... đã 60 xuân rồi! Còn chút sức lực nào, hãy sống và làm việc cho xứng danh lớp ta- K17 nhe!
Trả lờiXóayêu yêu!