Trang

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Chuyện rơm rạ (4)

Tôi còn nhớ như in cái ngày loa truyền thanh phát thông báo máy bay Mỹ khởi đầu ném bom miền Bắc. Chiếc loa nhỏ xíu màu xanh nhạt bằng gỗ gắn trên tường mà thời ấy quen gọi là loa kim báo rằng hôm 5.8.1964 Mỹ đã ném bom bắn phá vùng mỏ Quảng Ninh, rồi mấy tỉnh miền trong là Thanh Hóa, Quảng Bình. Vậy là chiến tranh đã lan ra tận Hải Phòng quê tôi. Mấy ngày đầu còn hoảng hốt, lo lắng nhưng sau có cảm giác quen dần, thấy cũng bình thường. Nhiều hôm nhìn hàng đàn tàu bay nối nhau cao tít trên trời từ phía biển Bàng La, Quần Mục, cửa sông Văn Úc tiến sâu vào đất liền, đám trẻ con chúng tôi thậm chí không chịu nhảy xuống tăng xê hoặc hố cá nhân mà còn nhí nhố chỉ trỏ, chỉ khi nghe bom nổ ùng oàng từ mạn Thượng Lý, cầu Niệm vọng về mới hơi sờ sợ.

Vài ngày sau, dân sơ tán từ nội thành kéo về. Thường thì những hộ thị dân có họ hàng, người thân ở quê thì tự động về nhà người thân, còn gia đình nào không có bà con họ tộc nơi đến sơ tán sẽ được HTX sắp xếp vào những nhà còn lại trong xóm. Tình cảm đùm bọc nhau lúc tao loạn khó khăn thật xúc động, đẹp đẽ. Sau này có những đứa trẻ thành thị lớn lên ở vùng quê sơ tán cứ nhớ mãi những kỷ niệm đẹp về mảnh đất và con người nông thôn. Riêng đám trẻ con bản xứ chúng tôi, được làm quen, được chơi, học chung với chúng cũng giúp học hỏi được nhiều điều. Chúng nó ngoài dáng vẻ sạch sẽ, xinh đẹp hơn mình, còn nhanh nhẹn, thông minh hơn, nhiều sách nhiều truyện, biết nhiều thứ hơn. Mình chỉ hơn chúng sự chất phác, thật thà, rụt rè thôi.


Cùng lứa với tôi hồi học cấp 2 (1966-1969) trường Thụy Hương, H.Kiến Thụy có những đứa thật khó quên. Tôi vẫn nhớ các bạn Nguyễn Ngọc Châm, Hoàng Liên Thái, Thanh Thủy, Hồ Ngọc Sử, Trần Hùng, Dương Thế Hùng, Đặng Ngọc Linh, Trần Đức Hậu, Vũ Văn Bình… Đứa nào cũng cao to, trắng trẻo, giọng nói nhẹ nhàng dễ thương, nhanh nhẹn, học giỏi. Châm sơ tán ở nhà bác Đạm - bác Đám của tôi xóm trong, Thái ở nhà bác Khể, Hậu ở nhà chị Nhắt, Bình ở nhà ông Thúy xóm Bến, Linh ở nhà ông Hiếu là bác của Linh gần Mả Đò, Sử ở kho HTX Thụy Sơn.

Cái Châm mới 12 tuổi nhưng cao to, đẹp gái, ngực đã nhô hẳn lên phải mặc áo ngực, bạn bè gọi là Châm gà tồ, nghe nói là cháu gọi ông Lê Thanh Nghị bằng cậu. Nó học giỏi nhất lớp, cả môn văn và toán, thầy Bài dạy hình học rất quý nó, thầy Phất dạy văn cũng rất cưng nó, thầy Tơ vật lý thường khen nó. Sau này năm 1969 khi đám sơ tán thấy chiến sự yên yên liền kéo nhau về Phòng gần hết thì nó vẫn ở lại, học chung với tôi xong lớp 8 trường cấp 3 Núi Đối rồi mới hồi cư. Nó được đi học bên Liên Xô, về nước làm ở Bộ Giáo dục, từng đóng đến chức Vụ phó Vụ Giáo dục mầm non. Làm to nhưng nó vẫn hay về thăm trường cũ, thăm hỏi các thầy cô, bỏ tiền túi góp vào quỹ trường, giúp các thầy hoàn cảnh khó khăn. Thầy cô, bạn bè cũ ai cũng quý Châm. Điều buồn nhất là Châm yểu mệnh, mắc ung thư mất sớm khi chưa tới 50 tuổi, để lại quá nhiều thương tiếc.

Hoàng Liên Thái là con một vị giám đốc nhà máy lớn (hình như nhà máy điện Cửa Cấm hoặc cơ khí Duyên Hải chi đó) ở nội thành. Chị nó là Hoàng Liên Hợp còn xinh hơn nó, học trước chúng tôi 1 năm, anh trai nó là Hoàng Kim Giao sĩ quan quân đội hy sinh năm 1968 sau này được phong anh hùng. Trong đám nữ sinh sơ tán, cái Thái là đứa dễ thương nhất, mặt tròn, má phúng phính, tóc hai túm hai bên, học văn rất giỏi chả kém gì cái Châm. Tôi rất mến nó, sự yêu thích ngấm ngầm của đứa trẻ nông thôn chất phác trước một cô gái thành thị duyên dáng cùng tuổi mình. Nhưng chỉ thích thế thôi chứ chả dám nói gì, sợ chúng nó cười, chúng chế cho thì ngượng lắm. Thái hay cho tôi kẹo bánh mà cậu mợ (bố mẹ) nó mỗi chủ nhật về thăm đem cho chị em nó. Những viên kẹo dường như còn ngọt trong miệng tới tận bây giờ.

Trần Hùng và Dương Thế Hùng cùng sơ tán về thôn Tú Đôi xã Kiến Quốc nhưng lại sang học bên cấp 2 Thụy Hương. Cả hai thằng đều học giỏi, nhất là thằng họ Trần. Thằng này đẹp giai như diễn viên Liên Xô, mấy đứa con gái thích nó lắm. Con trai mà lại có má núm đồng tiền. Năm 1969 nó quay về Phòng, nhưng không vào hẳn nội thành mà ở bên này cầu Niệm, gần ngã ba Quán Trữ, vừa đi học vừa phụ bố nó sửa xe đạp cho khách. Hồi sơ tán, hình như nó học được nghề sửa xe của anh An gù có cái quán nhỏ ngay trước sân ủy ban. Những năm ấy thỉnh thoảng tôi đẩy xe cải tiến chở dưa hấu ra bán ngoài chợ An Dương, lúc về có gặp nó, nhưng chỉ nói dăm ba câu là vội đi tiếp bởi đi bộ mà lại kéo xe cải tiến, đường về làng xa gần 20 cây số, có những hôm đến nhà thì đã tối mịt.

Thằng Hồ Ngọc Sử là đứa nhỏ con nhất trong đám sơ tán, da đen, mặt nhòn nhọn nhưng khôn ngoan nhất đám. Tôi nhắc đến nó bởi nó là đứa rất khéo tay. Nùn rơm, thụt rơm, mũ rơm mà nó đan thì nhất hạng, bọn con gái đan cũng chả khéo đẹp bằng. Nó chọn từng cọng rơm vàng óng, chuốt thật sạch thật đều, đan đều tăm tắp không chìa ra thụt vào như mũ chúng tôi đan. Cái mũ rơm của nó chẳng khác gì một tác phẩm nghệ thuật. Cứ nhớ thằng Sử, tôi lại thoáng nghe như đâu đây câu thơ của Tố Hữu “Chào các em, những đồng chí tương lai/Mang mũ rơm đi học đường dài”. Của đáng tội, mũ rơm tuy gọn và đẹp thật đấy nhưng hiệu quả không bằng thụt (nùn) rơm. Thụt rơm được bện chặt chẽ to bằng bắp chân, dài mấy mét, cuộn chặt lại thành vòng tròn đồng tâm, có nẹp tre nẹp lại cho chắc chắn. Thụt rơm của thằng Sử to dày đẹp nhất lớp. Người nó nhỏ, nó đeo cái nùn rơm sau lưng, trông như cái lá chắn vững chắc che chở, chả còn thấy người đâu.

Hôm ấy đang tiết học môn địa của cô Cúc thì báo động. Lớp học sơ tán sang thôn Phương Đôi để xa trận địa tên lửa Mả Đò. Cả lớp nhào ra, hầu hết chui vào hầm chữ A, còn đứa nào có thụt rơm thì xuống hố cá nhân đậy thụt lên trên. Nghe thằng Sử kể lại, đang ngồi dưới hố nó bỗng thấy phựt một nhát trên đầu, trúng vào thụt rơm. Lúc báo yên, cả bọn về chỗ, thằng Sử giơ cái lá chắn rơm lên, một mảnh đạn cao xạ màu xanh đen sắc nhọn như lưỡi dao cắm phập vào đó. Cả cô giáo lẫn học trò đều lắc đầu lè lưỡi. Không có cái thụt rơm thì chiều hôm ấy chắc đám ma thằng Sử. Cái thụt rơm đã cứu nó. Sự cẩn thận tài hoa đã cứu nó.

Cũng cần nói thêm, hồi chiến tranh phá hoại, dân chúng sợ bom Mỹ thì ít mà sợ mảnh đạn cao xạ thì nhiều. Có hôm tôi ngồi trong hầm chữ A nhà bác Bình tôi ở khu thành phủ cũ xóm Trợ, nghe đạn cao xạ nổ đì đùng trên đầu, mảnh đạn phạt xuống bờ tre rào rào mà phát khiếp. (còn tiếp)
Nguyễn Thông

2 nhận xét:

  1. Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.

    Trả lờiXóa
  2. Doc ky uc cua anh Thong toi chot nho toi nhung tran bom danh thi xa Ninh binh(cau Ninh binh)nam 1972.Luc dau thi so nhung lan sau chung toi ra xem cam thay binh thuong(que toi cach NB 3km).Nhat la ban dem dan ban nhu phao hoa nhay tet.Cam on nhung dong ky uc nay.

    Trả lờiXóa