Trang

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

Chuyện dạy học

Xứ mình nhiều ngày lễ, trong đó có lễ riêng của nhà giáo, những người làm nghề dạy học. Cứ tới tháng 11 tây hằng năm là không chỉ thầy lẫn trò mà dư luận xã hội cũng lao xao chộn rộn về ngày 20.11, ngày Nhà giáo Việt Nam. Ngày mai là ngày ấy, của năm 2018 này.

Thú thực, chả bao giờ tôi nghĩ mình sẽ theo nghề dạy học, còn gọi là sư phạm, thế mà lại đứng bục giảng những 16 năm trời. Hồi nhỏ tôi rắn mày rắn mặt, chỉ thích đi bộ đội hoặc làm lính biên phòng, chứ không thích làm thầy giáo. Người định một đằng, trời quyết một nẻo, chả thể nào tính được.
Tôi học khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp tháng 12.1976. Khóa tôi là khóa bản lề chiến tranh và hòa bình, vào học khi còn chiến tranh (1972), tốt nghiệp khi vừa hòa bình được hơn 1 năm (1976). Tháng 3.1977 từ quê ở Hải Phòng tôi nhận được thư thông báo của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp kêu lên Hà Nội nhận quyết định phân công công tác. Quyết định do Thứ trưởng Hoàng Xuân Tùy ký, cầm trên tay mà cứ run run. Kể từ nay, mình chính thức bước vào cuộc mưu sinh. Cảm giác thật khó tả. Nhưng không phải được vào nhà xuất bản, cơ quan báo chí hoặc viện này viện nọ. Quyết định ghi rõ điều động tôi vào nhận công tác tại Trường dự bị đại học Tiền Giang đặt tại TP.HCM. Làm nghề dạy học.

Tôi chính thức vào nghề giáo học từ ngày 25.4.1977, dạy một mạch đến năm 1993, khi đang là Tổ trưởng Bộ môn Xã hội (văn sử địa) thì… đói quá, xin nghỉ đi làm thuê cho một công ty nước ngoài. Hồi ấy gọi là đánh pắc (nói tắt tên của tổng thống Đại Hàn Pắc Chung Hy cho quân sang Việt Nam đánh giúp Mỹ, phe cách mạng gọi quân Đại Hàn là lính đánh thuê). Thông thường đánh pắc là vừa chân trong chân ngoài nhưng tôi thấy nản nghề quá nên nghỉ dạy luôn. Đồng lương giáo học khi ấy không đủ nuôi thân chứ nói gì nuôi cả vợ con.

Đời dạy học cũng lắm buồn vui. Trường dự bị đại học là dạng trường đặc biệt lập ra thời hậu chiến, chỉ thu nhận học viên thuộc diện đối tượng chính sách (bộ đội, thương binh, cán bộ đi học, con em gia đình cách mạng, TNXP, người dân tộc thiểu số, con cán bộ). Tiền thân của nó là Viện đại học cộng đồng Tiền Giang, một mô hình mới mẻ của giáo dục đại học ở miền Nam. Sau 1975, viện được chuyển tên thành Trường đại học cộng đồng Tiền Giang, rồi đến năm 1982 đổi lần cuối thành Trường dự bị đại học TP.HCM. Lai lịch vắn tắt như vậy để lý giải vì sao nó có 2 cơ sở, chính thì ở khu của Đại học Văn khoa cũ tại 91 Nguyễn Chí Thanh (Q.5, Sài Gòn), còn phụ (lúc đầu là chính) ven quốc lộ 4, cách ngã ba Trung Lương khoảng 2km, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Những năm đầu trong nghề, tôi phải thường xuyên dạy cả hai cơ sở, nửa đầu tuần ở Sài Gòn, nửa cuối tuần thì Tiền Giang.

Tôi còn nhớ như in những buổi đứng lớp đầu tiên, vào lớp mà phát hoảng, thấy tinh những vị học trò oai vệ lẫm liệt, thậm chí nhiều người tuổi bậc đàn anh đàn chị mình. Ai nấy đều mạnh bạo, cười nói oang oang, vẻ tự chủ, bản lĩnh toát ra từng khuôn mặt. Có “bác” chơi nguyên bộ đồ lính vải Tô Châu mới tinh, đeo cả quân hàm trung úy, thiếu úy rất oai, có “bác” tự khai từng là đặc công rừng Sác, đánh kho xăng Nhà Bè. Số có tuổi này phần lớn đã tốt nghiệp lớp 10/10 phổ thông rồi đi bộ đội, hoặc người miền Nam đã hết tú tài 2, vào R công tác, nay được nhận thẳng vào trường; đám trẻ hơn hầu hết là con cán bộ, thi đại học nhưng trượt, thiếu tí ti điểm, được xét vào dự bị. Tất cả đều học 1 năm ở đây, bồi dưỡng củng cố lại kiến thức, năm sau về các trường đại học, khỏi cần thi quốc gia, chỉ cần qua một kỳ thi nội bộ cho đủ lệ. Chúng tôi gọi đùa, chả phải học sinh, chả phải sinh viên, đố là ai? Trả lời: học viên lớp 13. 

Tuy thiếu vài ba điểm để được vào thẳng đại học sau kỳ thi tuyển sinh nhưng thực tế trong số họ có nhiều người rất giỏi. Trò của tôi sau này vào đời nhiều người thành đạt, thậm chí làm quan to, có bí thư, chủ tịch tỉnh, không phải bởi thầy cô giỏi mà chủ yếu là họ rất thông minh, có tài. Họ lỡ một nhịp chẳng qua do số phận, kể cả học tài thi phận, chứ không phải như ai nói “vào dự bị là thuộc diện ngu rồi”.

Lại nói chuyện nghề, buổi đầu lên lớp. Chọn bộ đồ còn mới nhất, lần đầu tiên bỏ áo trong quần, vẫn đi dép lê bởi từ bé tôi chưa hề đi giày, tôi ngập ngừng tới lớp, đến sớm vài phút, rụt rè lặng lẽ ngồi cái ghế phía dưới, chưa dám lên thẳng bàn giáo viên. Một anh bộ đội ngồi cạnh hỏi ông quê đâu, tôi bảo Hải Phòng, gã phát đánh đét vào đùi tôi, a đồng hương, dân Thủy Nguyên đây, ờ mà sao giờ này đéo thấy giáo viên đến nhỉ. Nghe vậy tôi giật mình nhìn vào chiếc đồng hồ Orient Nhật màu hồng 4 đinh của gã, bởi tôi nghèo không có đồng hồ, thấy đã tới giờ, vừa đúng lúc ấy tiếng chuông hiệu lệnh reo, vội ôm tập giáo án lên bục giảng. Ai nấy trong lớp ồ một lượt ngạc nhiên, kiểu như thày giáo gì mà non choẹt thế. Sau này cái anh bộ đội người Thủy Nguyên lúc đã thân tình với tôi rủ rỉ bảo ông đếch nói sớm làm tôi thất lễ quá. Y tên Đào Gia Thiệp, người xã Tân Dương, một gã nhiều tài lẻ, đang học sư phạm 7 + 3 Kiến An môn âm nhạc thì vào lính, chơi đàn phong cầm (accordeon) hàng thượng đẳng, chỉ có điều chả chịu học hành đến đầu đến đũa gì cả, đang học dở Trường đại học Sư phạm TP.HCM thì bỏ hẳn, về quê làm ruộng, làm trưởng thôn gần chục năm rồi nghỉ, vui thú điền viên. 

Trường tôi cũng giống như nhiều trường đại học khác của miền Nam sau 1975, đội ngũ giáo viên có rất nhiều giáo viên cũ, được lưu dung. Thú thực, lúc đầu nhiều giáo viên, giảng viên, cả già lẫn trẻ ở miền Bắc vào, mang tư thế của “Bên thắng cuộc” nên thường ra vẻ ta đây, coi trời bằng vung. Ngược lại, số lưu dung kia thì mặc cảm, rụt rè, e ngại, cam chịu. Nhưng môi trường khoa học chứ có phải cơ quan hành chính đâu mà đè nén được nhau mãi. Cái thực lộ ra ngay, có mà trời giấu. Một thời gian sau, đám Bắc chúng tôi phải công nhận rằng những giảng viên cũ nhiều người rất giỏi, cực giỏi, nhất là về chuyên môn và ngoại ngữ. Chúng tôi, đám giáo viên Bắc chỉ hơn họ được mỗi cái lập trường giai cấp, chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận này nọ. Có thể kể tên một số anh chị lưu dung như Cung Bỉnh Duyệt, Huỳnh Công Sanh, Đỗ Trung Hưng, Nguyễn Hữu Nghiệp, Võ Thanh Long, Trần Mạnh Hảo, Chu Đức Khánh, Hứa Hồ Ngọc, Nguyễn Thị Tố Quỳnh, Phạm Văn Ba, Phạm Văn Nhơn… Chúng tôi theo được họ cũng còn khướt. 

Đời dạy học của tôi gắn với Trường dự bị đại học TP.HCM 17 năm trời (từ năm 1977 đến 1993, thêm năm 1995 sau đó). Gần như phần tuổi xuân, cái thời hăng hái nhất tôi gắn với nghề dạy, sau này bỏ nghề, những lúc vẩn vơ nghĩ lại cũng tiêng tiếc.

Khoảng mấy năm đầu thập niên 80, hình như năm 1982 thì phải, phong trào luyện thi đại học được khơi lên. Đành rằng do nhu cầu mà phát sinh nhưng có thể nói luyện thi đã dần dà làm hỏng chất lượng đại học. Những học sinh trình độ kém, ít tài năng sau cú trượt lần 1 đã dồn hết sức cho đợt luyện thi, chỉ học ròng rã 3 môn theo khối thi, làm gì mà không đủ khả năng đánh bật những học sinh phổ thông mới tốt nghiệp, tuy khá và giỏi nhưng vừa trải qua kỳ thi vất vả, đã mệt nhoài nên khó đua tranh.

Trong suốt gần hai chục năm trời, Trường dự bị đại học TP.HCM nổi tiếng là trung tâm luyện thi uy tín, mỗi năm thu hút hàng nghìn học sinh khắp cả miền Nam. Có những năm, vào thời điểm hoàng kim luyện thi, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Năm phải ra lệnh hạn chế nhận thí sinh vào trường mặc dù nhận vào là có tiền, bởi không đủ chỗ học, ngoài ra giáo viên dồn giờ dạy cho luyện thi nhiều quá nên chểnh mảng nhiệm vụ chính. Đồng tiền kiếm từ luyện thi giúp cho đời sống giáo viên khá hơn nhưng hầu như chả mấy ai nghĩ rằng chính họ đã góp phần làm hư hỏng hệ đại học. Tôi có anh bạn là giảng viên Trường đại học Tổng hợp, bên ấy cũng căng ra luyện thi, anh kể có ngày dạy luyện thi tới 10 tiết, sáng 4, chiều 4, tối 2, chỉ kịp nhét miếng cơm vào mồm rồi cuống cuồng lên lớp. Lúc nào cũng thèm ngủ. Sài Gòn những năm đó trong giới giáo viên tồn tại một câu lạc bộ có tên CLB 30 triệu. Ai dạy luyện thi thu nhập 30 triệu đồng/tháng thì đương nhiên được gia nhập CLB này. Đồng tiền khiến nhiều thầy cô bị say, say tiền. Một thầy ở trường tôi cũng vậy, thầy Nguyễn Loan dạy toán, dạy nhiều đến mức bị kiệt sức, suy nhược cơ thể, vào bệnh viện được vài hôm thì mất.

Nhưng không phải thầy cô nào cũng khá lên nhờ luyện thi đại học. Chủ yếu là các môn phục vụ khối thi A và B thôi (toán, lý, hóa, sinh) chứ đám thầy cô văn sử địa hầu hết đói dài. Tôi cố trụ mãi nhưng học sinh luyện thi môn văn cứ ngày càng ít dần. 

Túng đói quá thì phải… liều. Nhà trường cho phép công đoàn tổ chức giữ xe cho sinh viên. Đám giáo viên đói được ưu tiên tham gia. Thật trớ trêu, cứ đầu giờ thì tay cục phấn, tay cầm nắm thẻ xe, ghi số, thu tiền, học sinh vừa dắt xe vào vừa “em chào thầy cô ạ”. Lúc đầu còn chào lại mà chả giấu hết sự ngượng ngùng, về sau chúng hắn biết ý không chào nữa, lặng lẽ đưa tiền, tiền dư cũng không lấy lại. Chuông reo, rửa tay, vuốt vội bộ quần áo, lại trèo lên bục giảng ê a tác phẩm này hay, tác phẩm kia tốt. Có hôm còn dạy cả tác phẩm Sống mòn của Nam Cao, có hôm dạy bài nghề cao quý của người thầy. Nhìn vào mắt trong veo của sinh viên, biết chúng nghĩ gì. Trớ trêu vô cùng.

Có những thầy cô ngượng, giữ xe được vài bữa thì bỏ. Nhưng phải làm cái gì mà sống chứ. Thế là người nuôi gà, người nuôi cá trê phi, nuôi chim cút, làm sữa chua, bỏ mối nước đá... Mỗi phòng ở chỉ chưa đầy 20 mét vuông. Thầy Tuấn dạy địa lý dẹp hết cả đồ đạc giường chiếu vào một góc, nuôi gần 5 chục con gà mái đẻ trong phòng. Chưa bước vào nhà đã sặc mùi phân gà, mùi cám, mùi khổ ải. Thầy Vy mua gạch xây hẳn trong nhà cái bể to đùng nuôi cá trê phi. Nước máy không đủ dùng, người tắm cũng phải hạn chế tiết kiệm từng giọt nhưng nước cho các “ông bà trê phi” (thầy Vy bảo thế) lúc nào cũng phải sạch. Nhà nước khó khăn không nuôi nổi mình thì đành nhờ cậy “các ông bà” gà qué, chim cút, trê phi gánh đỡ qua cơn hoạn nạn chứ biết làm sao. Đời dạy học những năm đó thực khổ trăm bề. 

Chả muốn kéo dài tình trạng vừa lên lớp vừa giữ xe muối mặt với học trò, vừa nuôi gà công nghiệp, nuôi cá, dán phong bì… nên đầu năm 1993 tôi quyết định xin nghỉ, đi làm thuê cho nước ngoài. Thầy Nguyễn Văn Vy bạn tôi đùa bảo giá dấn đi thêm tí nữa ra bến Nhà Rồng nhân tiện tìm đường cứu nước cứu nhà luôn có phải một công đôi việc không. Chua chát lắm. Tôi xuống phòng hành chính ký nhận cái quyết định nghỉ việc và qua phòng tài vụ lĩnh cục tiền, được hơn 3 triệu đồng, tính ra sau 16 năm làm việc cho nhà nước được trả gần 7 chỉ vàng. Số tiền ấy chưa kịp dùng vào việc gì thì một người quen là bộ đội ở Cần Thơ lên hỏi mượn, hẹn 1 tuần trả. Vợ chồng tôi nể quá, đưa rồi mà linh cảm cứ lo lo. Sau 2 tuần vẫn chả thấy y đâu, từ bấy không gặp lại con nợ nữa. Năm lần bảy lượt xuống Cần Thơ dò hỏi, hóa ra anh ta sai phạm bị quân đội loại ngũ, đã lừa một lượt tất tật người quen rồi cả vợ con kéo nhau bùng mất. Sau 16 năm, tôi quay lại thời ban đầu với hai bàn tay trắng.

Như tôi từng kể, cùng trường, có nhiều thầy cô giáo cũ dạy ở Sài Gòn trước năm 1975 rất giỏi. Một hôm, tôi hỏi thầy Chu Đức Khánh, giáo viên toán, sao mà anh học kinh thế, vừa lấy bằng cử nhân toán của Đại học Khoa học Sài Gòn (anh Khánh là học trò cưng của thầy GS Đặng Đình Áng), vừa lấy bằng tốt nghiệp Viện quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, anh ấy cười, bảo tưởng gì, sinh viên miền Nam trước 1975 học 2 - 3 trường cùng lúc là chuyện thường. Các trường đại học đều mở rộng cửa, cứ đậu tú tài 2, đăng ký, đóng tiền là học, muốn học bao nhiêu cũng được. Làm gì có chuyện chen nhau luyện thi như bây giờ. Quan trọng là cái đầu ra, chất lượng của đầu ra. Nền đại học của miền Nam trước 1975 không quan tâm đến đầu vào, chỉ cốt đầu ra thôi. Học thế nào thì học, phải thi lấy đủ chứng chỉ, không đủ và tất nhiên là không đạt chất lượng thì cứ việc học cho đến già hoặc vào lính. Thầy Nguyễn Hữu Pha nói thêm, ra trường mà đi dạy, như tôi đây này (thầy Pha chỉ vào mình), lương 32.000 đồng, nuôi cả nhà. Chỉ tiết kiệm 2 tháng là mua được chiếc xe Honda Dame mới cứng. Mà giáo viên ít chịu chạy Honda, phải Vespa cơ, mới đúng kiểu. Nghe thầy nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn vào đám mấy con gà mái đẻ xơ xác thiếu cám, cả tuần nay chẳng cho quả trứng nào.

Giờ nhớ lại chuyện cũ của thầy Khánh, thấy đúng là nền đại học của chế độ mới càng ngày càng đi xuống. Trường lớp mở thêm nhiều, giáo viên ngày càng đông nhưng chất lượng giáo dục cứ ngày càng tệ hại. Những kỳ thi tuyển sinh mỗi năm thêm nặng nề, tốn kém, trở thành thứ tai ách cho xã hội. Bao nhiêu tiền của, công sức đổ vào thứ thủ tục hành dân vĩ đại ấy nhưng vẫn không làm những người cai quản giáo dục vừa lòng. Họ liên tục bày vẽ ra đủ thứ, miệng kêu đổi mới nhưng lại là những người bảo thủ nhất. Cứ điểm lại, nền giáo dục của chế độ này, dù so với thời thuộc Pháp đã kém xa về chất lượng nhưng ít ra có thời gian dài trước 1975 cũng ghi điểm được vào thời các bộ trưởng, những vị thượng thư đầu ngành uy tín như Tạ Quang Bửu (Bộ ĐH và THCN), Nguyễn Văn Huyên (Bộ Giáo dục), nhưng rồi cứ trượt dần, càng ngày càng xa so với cũ và với thế giới xung quanh. Người ta đùa nhau: Trường chẳng ra trường, lớp không ra lớp, thầy chả ra thầy, trò chẳng ra trò, đó là nền giáo dục Việt Nam sau 1975. Trải qua các đời thượng thư bộ đại học và giáo dục (sau này gộp thành Giáo dục – đào tạo) Nguyễn Thị Bình, Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quân, Nguyễn Minh Hiển, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Vũ Luận, Phùng Xuân Nhạ, giáo dục nước nhà ngày càng bết bát, như ngôi nhà mục nát chờ ngày đổ sụp. Đó là đỉnh cao chói lọi của nền giáo dục do những người cộng sản lãnh đạo.

Bây giờ mở mắt ra là nhìn thấy trường đại học. Họ mở nhan nhan trên khắp nước. Một xã hội được đại học hóa một cách khiên cưỡng. Các ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thiện Nhân có công đầu trong việc tạo rác đại học cho xứ này, nay thì ông Nguyễn Xuân Phúc tha hồ mà dọn. Ông Dũng đã hạ cánh an toàn, giờ sống chết mặc bay. Ông Nhân chẳng những không bị xử lý gì mà ngày càng leo cao, làm đến Ủy viên Bộ Chính trị trong bộ máy chóp bu triều đình. Một nước có hàng vạn giáo sư, phó giáo sư, hàng mấy trăm nghìn tiến sĩ nhưng hầu như không có công trình khoa học nào đáng kể với thiên hạ. Mỗi năm gần 200.000 thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp không có công ăn việc làm mà lý do cơ bản là trình độ quá kém… Nhưng cứ như những kẻ đui điếc liều, hằng năm người ta vẫn ào ào mở trường đại học, rầm rộ thi cử, tuyển sinh, thu tiền, coi như không có chuyện gì xảy ra.

Con thuyền giáo dục xứ này, buồm thì rách nát, thuyền trưởng và thủy thủ lọng cọng, u tối, chưa cần ra biển rộng, chỉ quanh quẩn trong cừ kênh mương rạch ao tù hồ cạn cũng đã đủ chao đảo, chấp chới, đắm chìm.

Nhiều lúc ngẫm nghĩ thấy buồn cho nghề, cái nghề mà có thời lòng tôi ca hát “Yêu người bao nhiêu, ta càng yêu nghề bấy nhiêu”.

Nguyễn Thông

2 nhận xét:

  1. Cảm ơn anh Nguyễn Thông đã chia sẻ. Bài viết thật hay anh ạ. Vốn sống anh nhiều, cùng với lời văn dí dỏm, đọc rất thích.

    Trả lờiXóa
  2. Trước 1975,giáo sư đại học sài gòn rất nhiều người gốc miền bắc rất giỏi như Nguyễn Chung Tú, Nguyễn Ba, Đặng Lương Mô,....phần lớn tốt nghiệp PhD ở Mỹ và Châu Au rất giỏi! Nhưng sau 1975 giáo viên dạy đại học ở miền bắc vào đa số chuyên môn bình thường nhưng chính trị mac lê cao cấp hết...Để cho thấy cái "iêu việt" của cnxh!

    Trả lờiXóa