Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Chuyện đồng hồ

Bây giờ chả mấy ai khoe đồng hồ dù có những cái xịn giá lên tới mấy trăm nghìn đô Mỹ, quy ra tiền xứ ta phải vài tỉ bạc. Bởi nó đã hết thời.

Đồng hồ chủ yếu chỉ để coi giờ giấc, nhất là ở cái thời con người còn nhờ vào bóng nắng, tiếng gà gáy, tiếng tút tút trên đài phát thanh, thậm chí cả hoa (hoa đồng hồ) để biết thời gian, thì nó là soái ca. Những người đeo đồng hồ, oai phong chả khác gì đại gia thời nay diện xe ô tô Toyota Avalon hoặc Lexus 570. Nhưng cái gì cũng có thời, khó tránh khỏi bị rẻ rúng, thất sủng. Bây giờ trong mỗi chiếc điện thoại di động đều hiện đủ cả giây phút giờ ngày tháng, thậm chí ngày âm ngày dương, nạp sẵn lịch cho vài trăm năm, vậy thì sắm đồng hồ làm quái gì, chỉ tổ vướng víu. Các hãng sản xuất đồng hồ, dù nổi tiếng như ở Thụy Sĩ đi chăng nữa, cũng sẽ chết, cũng như đám sản xuất phim ảnh, giấy ảnh, máy ảnh Kodak, Fuji, Orwo, Minolta… bị ngỏm củ tỏi bởi không đọ nổi máy ảnh kỹ thuật số vậy.

Lại nhớ thời còn bé, những năm 60-70 ở miền Bắc, đồng hồ là của hiếm. Thực ra chỉ hiếm sau năm 1954, tức là sau khi chính quyền mới tiếp thu miền Bắc. Đuổi được Pháp thì cũng đồng thời đuổi luôn những tiện nghi, vật dụng của bọn “đế quốc sài lang”. Ô tô, xe đạp, quạt máy, lụa là vải vóc…, chả riêng gì đồng hồ, dính với thực dân phong kiến, với lối sống hưởng lạc, cứ là dẹp cho bằng hết. Ta độc lập tự chủ, tự ta làm lấy mọi thứ, không có thì tạm nhịn. Ấy là nói với dân thôi, chứ cán bộ đã có hàng hóa Liên Xô, Trung Quốc viện trợ.

Cả làng tôi, tới khi tôi lên 10 tuổi, tức là lúc Mỹ bắt đầu đánh phá, thú thực tôi chả thấy ai đeo đồng hồ. Cán bộ xã Thụy Hương (huyện Kiến Thụy, Hải Phòng) như ông Sơn bí thư, ông Hoạt phó bí thư, ông Mạo chủ tịch… cũng không thấy ai có đồng hồ bởi nếu có thì phải đeo trên tay. Tôi thường ra trụ sở ủy ban mượn báo về cho thày tôi đọc, gặp các ông hằng ngày, tôi nhớ là như thế. Về sau, khi Liên Xô viện trợ hàng hóa, cán bộ xã được phân phối đồng hồ Raketa, vị nào chức to hơn thì được mua đồng hồ Poljot. Nếu cán bộ huyện trở lên thì được loại mạ vàng, trông sang và đẹp, còn thì mạ trắng. Tất cả đều lên giây cót, lên căng hết mức cũng chỉ chạy được một ngày, tối nào quên lên giây sáng mai nó chết ngỏm.

Hồi tôi học lớp 8, lớp đầu cấp 3 hệ 10 năm, cả thôn có 4 đứa học trường huyện, đều nhà nghèo, trường cách nhà hơn 3 cây số nhưng tinh đi bộ, hôm nào cũng phải dậy từ sáng sớm. Không có đồng hồ, chả biết đâu mà lần, cứ căn theo gà gáy và tiếng người đi chợ thì dậy. Riêng lão Cước cùng lớp, cùng tuổi nhưng tôi gọi bằng chú, có chiếc đồng hồ Nicle hai kim, kim xanh kim đỏ. Đeo oai lắm, ai hỏi giờ, thỉnh thoảng lão vung tay quay một vòng rõ rộng rồi mới trả lời. Hồi đó người ta truyền tai nhau “Ni cờ le vừa nghe vừa lắc”, muốn biết nó đang chạy hay không phải áp sát vào tai nghe tiếng tích tắc, nếu đã chết thì lắc mạnh nó mới chạy lại. Tôi ngờ lắm, mấy lần hỏi giờ lão Cước đều ấp úng, hình như chỉ đeo để tán gái, cô Chi mậu dịch viên cửa hàng bách hóa huyện, chứ không cốt xem giờ.

Hồi trước năm 1975 ở nông thôn miền Bắc những nhà khá giả thường sắm đồng hồ để bàn của Trung Quốc, quên hiệu rồi, chỉ nhớ nó màu trắng viền xanh, dưới số 12 có con gà mái màu vàng mổ thóc. Nó mổ theo tiếng tích tắc, tích tắc, bây giờ thì thấy đơn giản nhưng hồi ấy quả là tuyệt vời. Hàng Tàu thời xưa tốt lắm, phích nước, thau sắt tráng men, xe đạp Vĩnh Cửu hoặc Phượng Hoàng, bút máy Kim Tinh, vải Tô Châu, cả cái đồng hồ con gà mổ thóc nữa. Xài rất bền, ít hỏng hóc. Vải Tô Châu mặc đến rách te tua, sờn hết đầu gối hoặc mông đít nhưng vẫn tươi màu, lạ thế. Ông Tế anh họ tôi làm phó chủ nhiệm hợp tác xã được phân phối một chiếc con gà mổ thóc, cả nhà nâng niu như của gia bảo, hình như dùng mấy chục năm mới chịu bỏ.

Nhà tôi không có đồng hồ, cả để bàn lẫn đeo tay đều không. Thày bu tôi thức khuya dậy sớm quen rồi, vả lại cứ ăn xong là ra đồng nên không cần đồng hồ. Đám mấy chị em tôi hiểu hoàn cảnh nhà mình thiếu thốn nên biết nghe gà gáy cầm canh để ước chừng khi nào cần dậy đánh răng rửa mặt rồi đi học. Nhà tôi hướng chính đông, buổi trưa biết coi bóng nắng mấy hàng gạch mà tính giờ, chả mấy khi sai. Nhiều người chắc còn nhớ trong truyện Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố có chi tiết nhà nghị Quế “bóng nắng xuống thềm một hàng gạch, xe lửa 1 giờ toe toe hét còi” nhưng lão nghị cứ gân cổ cãi mới 12 giờ. Nghị Quế sai chứ anh em tôi chả mấy khi sai. Tôi xin nói thêm rằng gạch phải là gạch Bát Tràng vuông cỡ 20x20 cơ chứ không phải gạch thẻ, có thế coi bóng nắng mới chính xác. Đám gạch đó thày tôi hồi sau cải cách ruộng đất mua lại được của mấy ông bà nông dân được chia quả thực tài sản địa chủ, lát được cái sân để tiện phơi thóc, phơi khoai khô. Gạch bóc lên từ sân địa chủ, hòn lành hòn vỡ, hòn cong hòn vênh, trông cái sân gạch cứ như chiếc áo vá chằng vá đụp, nhấp nhô cao thấp. Mà khiếp thật, đến cả cái sân gạch của địa chủ mà đội cải cách cũng không tha, quyết bẩy lên bằng được, đánh cho địa chủ chỉ còn hai bàn tay trắng. (còn tiếp)

Nguyễn Thông

5 nhận xét:

  1. Thông ơi, già rồi, nghỉ đi. Bịa chuyện lừa được trẻ con và người miền Nam nhưng lại làm trò cười cho người miền Bắc. Người Bắc thời đó còn sống nhăn đầy ra chứ đã chết hết đâu mà phịa tào lao. Thời chiến tranh ai chả biết khó khăn khổ sở thế nào, ai chả biết vì sao mà khổ, đâu cần Thông sáng tác thêm mắm dặm muối mì chính rồi nấu ra những món khó ngửi câu view thế này.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Lại một chú bê đỏ lạc đàn đang "be be"-những thanh âm vô nghĩa mà trung tâm đào tạo DLV cấp tốc đã mớm vội. Tội nghiệp!

      Xóa
    2. Anh TMĐ ơi, em cảm ơn anh. Họ cố thủ trong suy nghĩ của họ, em cũng chả quan tâm. Em không xóa những comment như vậy để mọi người có thể đọc được và biết hiện vẫn còn những con người như thế, nhất là sự thiếu văn hóa, chứ xóa thì em xóa dễ ợt, anh ạ.

      Xóa
  2. Bài viết hay quá! Tôi ở miền Nam nhưng những chuyện thế này tôi đã được nghe nhiều người miền Bắc kể lại.

    Trả lờiXóa
  3. với những chiếc đồng hồ cổ như đồng hồ poljot luôn có lịch sử kỉ niệm lớn gắn liền với người sở hữu nó

    Trả lờiXóa