Sau khi lếch thếch lôi thôi kéo nhau từ nơi sơ tán 2 huyện Yên Phong và Hiệp Hòa ven sông Cầu về thủ đô, thời gian đầu năm 1973 khoa Văn, trong đó có K17 đang năm thứ nhất, về tạm trú tại nhà D1 bên trường ngoại ngữ. Khu nhà của trường Tổng hợp lúc đó vẫn còn đang bị Ban tiếp nhận viện trợ Trung ương sử dụng, họ chưa trả lại. Tới tháng 5 hoặc 6 chi đó, thầy trò khoa Văn kéo nhau sang dọn dẹp lại phòng ốc để chuẩn bị hồi khoa. Tôi còn nhớ nó tan hoang như bãi chiến trường, đầy những vỏ hòm gỗ thông, đai sắt ngổn ngang cả trong nhà lẫn ngoài sân ngoài vườn. Tuy vậy, người ta vẫn chưa chuyển hết hàng. Anh Nguyễn Đăng Thành chỉ cho tôi coi còn mấy phòng tầng 1 nhà C2 vẫn ăm ắp hàng, không người trông coi. Hai anh em mò vào, lòng tham cố hữu nổi lên. Nhưng cũng sờ sợ, nhỡ ai bắt được thì bỏ mẹ. Cuối cùng anh Thành lấy chiếc chậu thau men Trung Quốc giấu vào bụng trùm áo lên, trông như bà có chửa, còn tôi nhát chỉ dám thó mỗn cuốn sổ dày giấy trắng tinh bìa giả da, đút vào cạp quần. Thế mà thoát. Khi ấy thầy Chu Xuân Diên và các bạn đang lúi húi dọn dẹp gần bể nước.
Cái chậu của anh Thành dùng mãi tới khi ra trường mới bỏ, sau bao quăng quật. Phải công nhận đồ Trung Quốc nói chung, cụ thể là sắt tráng men, bền khủng khiếp. Còn cuốn sổ, tôi ghi chép đủ thứ, cả thơ tình Puskin, Lermontov, Heine, cả kịch Sechxpia, Molie..., khi vào Nam nhận công tác thì bỏ lại nhà, tất nhiên bi giờ chả biết nó ở chỗ nào hay bị đun từ lẩu lầu lâu rồi.
Cái bể nước dùng chung cho nửa khối nhà C1 và C2, nửa phía bên kia của khoa Sử cũng có một bể như thế. Cả thầy cô (nhà C1) và trò sinh viên (nhà C2) đều trông cậy vào bể này, tất tần tật giặt giũ, tắm táp, đánh răng, rửa mặt, ăn uống. Mà nào nó có to tát gì, chỉ dài hơn 2m, ngang cỡ mét rưỡi, cao cũng chừng ấy. Vòi nước thì thường xuyên chảy ri rỉ như trẻ con đái sắp xong. Chính vì vậy, lúc nào xung quanh bể nước cũng đông như hội, 24/24, tình cảnh ôm chậu quần áo, xách cái xô, cầm chiếc ca... xuống xếp hàng chờ tới lượt yêu nước trông thật là thê thảm.