Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện bút chuyện mực. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện bút chuyện mực. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019

Chuyện bút chuyện mực (kỳ 3, cuối)

Nhắc tới bút máy lại nhớ chuyện khắc bút. Hình như có một thời, những năm 1960 – 1970, đó là thứ nghề kiếm sống gắn liền với cây bút, cũng như hồi thập niên 80 - 90 người ta sống bằng nghề bơm mực bút bi.

Khắc bút trước hết phải là người có hoa tay, khéo léo, chất nghệ sĩ. Nghề khắc bút như nghề kim hoàn vậy, rất tỉ mỉ, chính xác tới từng chi tiết. Cây bút thời ấy hiếm, là đồ quý giá, nhất là những bút đắt tiền như Parker, Kim tinh, Anh hùng, nên thợ khắc phải thật cẩn thận, lỡ làm sai làm hỏng thì đền nhọc. Khách hàng khắc bút để tặng nhau, để làm kỷ niệm, cũng có khi thấy người ta có bút khắc thì mình cũng khắc. Chủ cây bút yêu cầu khắc gì, thợ khắc cũng chiều. Khắc tên, khắc hình ảnh, khắc các biểu tượng…, thợ khắc làm tất, cứ theo thứ được thể hiện trên cây bút mà quy ra tiền. Những hình ảnh phổ biến nhất là chim hòa bình (hồi đó người ta gọi chim câu, chim bồ câu là chim hòa bình), hai con sóng đôi, biểu tượng cho hạnh phúc; rồi cây dừa rủ những tàu lá xuống như mái tóc; rồi cảnh hồ Gươm-tháp Rùa… Phần chữ thì thường là Kính tặng, thân tặng ai đó, cũng có khi là Anh yêu em (hoặc Em yêu anh) mãi mãi, cũng có khi chỉ nhắc lại một kỷ niệm, chẳng hạn Kỷ niệm ngày ra trường, v.v..

Trên vỏ nhựa cây bút bé tí, chứa bao nhiêu tâm tư tình cảm, người ta muốn trút hết lên đó. Từ một dụng cụ đơn thuần để viết, cây bút thành một thứ kỷ vật, một thứ “xú vơ nia” vừa mang dấu ấn cá nhân, vừa đặc trưng thời đại. Chả thế, những người lính miền Bắc khi ra trận, nhất là vào chiến trường miền Nam xa xôi, trong ba lô thường có cuốn sổ tay bìa nhựa và cây bút máy. Do điều kiện chiến trường, lính không thể đem theo lọ mực nước Trường Sơn như lúc đi học nên họ gói những gói mực khô, giống như hạt mì chính (bột ngọt), khi nào cần viết lại hòa vài hột, bơm đầy ruột bút. Chàng lính sinh viên Nguyễn Văn Thạc đã cần mẫn ghi nhật ký chiến tranh bằng cách ấy, để lại cho đời những trang viết nồng nàn “Mãi mãi tuổi hai mươi”. Sau chiến tranh, những đội đi tìm mộ liệt sĩ, quy tập hài cốt thường bắt gặp trong số những di vật còn sót lại có những cây bút máy khắc tên, hình ảnh, đơn vị, quê hương, và đó trở thành đầu mối quan trọng để xác minh lai lịch người đã khuất.

Hầu như các thị trấn, huyện lỵ nào cũng có người làm nghề khắc bút. Ở thị xã, thành phố lại càng nhiều. Và nhiều nhất ven bờ hồ Gươm chốn kinh kỳ. Tôi còn nhớ, những năm đầu thập niên 1970, ngay khu cổng đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc có tới mấy thợ khắc bút. Trong số ấy, đáng chú ý nhất một ông gầy gò, tóc bạc trắng, khắc rất khéo rất đẹp. Đám sinh viên hầu như đứa nào cũng đem bút cho ông lão ấy khắc. Khắc xong, ông dùng chiếc khăn bông nhỏ lau thật kỹ, xoa phấn trắng lên, cây bút vụt biến thành một tác phẩm nghệ thuật, ai cũng xuýt xoa thích thú. Chỉ có điều hơi đắt, tiền công những gần 1 đồng.

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2019

Chuyện bút chuyện mực (kỳ 2)

Sang đầu thế kỷ 20, khi nho học tàn lụi, Tây học chiếm ưu thế và ngày càng phổ biến thì nhiều thứ bị cuốn theo, thay đổi. Không còn giấy bản, mực tàu, nghiên mực, bút lông nữa, mà người ta dùng giấy tây, mực tây, bút sắt. Chữ quốc ngữ theo mẫu tự Latinh thay thế chữ nho, hợp với bút sắt, mực tây. Dòng chảy cuộc sống theo lẽ tự nhiên như vậy, có cưỡng lại cũng không được.

Lứa chúng tôi, học cấp 1, cấp 2 (bây giờ gọi là tiểu học và trung học cơ sở) hệ 10 năm ở miền Bắc hồi thập niên 1960 chỉ dùng bút sắt (do có ngòi bằng sắt) và bút máy. Như đã nói ở phần trước, bút sắt gồm quản bút, ngòi bút (lá tre), chấm mực, viết rất chậm. Chỉ học sinh cấp 1 (từ lớp 1 tới lớp 4) mới dùng loại bút này. Nhưng phải nói rằng, do đặc điểm của bút sắt, nó tạo cho đứa học trò tính cẩn thận. Viết chậm, nắn nót, giữ cho đừng dây mực, lem mực ra sách vở, quần áo. Hầu hết những đứa viết bằng bút này chữ đều đẹp, dễ coi. Ở đây cũng cần nói thêm, ngày xưa, thế hệ học trong nhà trường thời Pháp, gần như chữ viết cùng một kiểu, dù học ở thành thị hay nông thôn, ở tận miền núi phía bắc hay tuốt sâu đồng bằng Nam Bộ. Cùng một kiểu chữ, kết hợp đủ cả sự rõ ràng, dứt khoát, uyển chuyển, chân phương, bay bướm. Và rất đẹp. Giờ đây, mỗi khi có dịp tìm được những văn bản viết tay thời Pháp, không khỏi kinh ngạc sao hồi ấy người ta lại có thể tổ chức được cách giáo dục nhất quán và chất lượng như thế. Đó là điều mà bây giờ chúng ta coi như không tưởng, không thể nào làm được.

Ngòi bút lá tre, dùng một thời gian sẽ bị cùn, mực tháo nhanh, chữ bị xấu, nhòe. Thời thập niên 60, giá bán cái ngòi bút chỉ 5 xu hoặc 1 hào nhưng nếu ngòi bút hỏng hoặc cùn, không phải lúc nào cũng có tiền mua thay. Anh trai tôi khéo tay, biết cách mài lại ngòi bút để nó vừa trơn đừng cào giấy, vừa chảy mực đều. Một lọ mực Cửu Long to bằng nắm tay của Xí nghiệp văn phòng phẩm Hồng Hà có thể dùng được cả học kỳ. Đó là với những đứa cẩn thận, chứ nhiều đứa, chỉ nhìn vào quần áo, sách vở cũng đủ biết chúng nó tốn mực đến thế nào. Tôi thuộc diện hậu đậu, tốn mực, nay đổ mai đổ, bị bu tôi mắng suốt, trong khi đó anh Dinh con dì Được còn biết cách chế ra cả mực để viết, không thèm mua mực Hồng Hà, thế mới tài. Khi chúng tôi hì hục nặn từng hột mùng tơi hoặc quả thèn đen để lấy mực thì tay Dinh đã biết cách đốt vỏ xe cao su lấy muội đen hòa với cồn làm mực. Sau này những năm đầu thập niên 80 tôi có nghe nói ông vua lốp Nguyễn Văn Chẩn ở Hà Nội cũng từng chế mực kiểu này. Nhờ làm lốp xe đạp có chất lượng tốt hơn cả lốp của Xí nghiệp xe đạp Thống Nhất và làm mực viết mà ông thành đại gia. Ông Chẩn bị chính quyền “đánh” trong vụ Z30, tịch thu hết gia sản, bị đi tù, trong một vụ án kinh tế oan sai tai tiếng một thời.

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

Chuyện bút chuyện mực

Hôm trước, ông bạn “nhiều thứ đồng – hương, nghiệp, tuế, môn”, nhà báo Đào Lê Bình có việc trọng từ thủ đô vào Sài Gòn. Y về hưu rồi, hằng ngày chỉ “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”, chứ hơn năm trước cũng ghê lắm, đóng quan năm, sếp của tờ báo có tiếng. Gọi điện, hỏi làm gì đấy, gặp nhau được không. Thế là gặp thôi.

Trong cuộc vui, y cười hì hì, bảo ông đừng tưởng ông nhớ nhiều di sản văn hóa phi vật thể nhé, tôi đây này, cũng còn lưu giữ khơ khớ đấy. Y hát “Đường làng em, đường làng em cây sóng hàng đôi/Đồng làng em, đồng làng em cây giăng thẳng lối/Nghiêng nghiêng cành, cây soi mình, trong gương nước long lanh kênh đào/Nghe rì rào, rặng phi lao, hòa tiếng ca quê nhà đẹp sao…”. Hát thêm vài bài tủ nữa, nào anh Nguyễn Bá Ngọc sáng soi rực rỡ núi sông, nào tiến lên đoàn viên trăm hoa hé tưng bừng, y tuyên bố hồi xưa đi thi văn lớp 7 toàn miền Bắc từng đoạt giải khuyến khích chứ chả đùa. Nghe y hồi tưởng quá khứ lẫy lừng, tôi chợt nhớ mình từng đi thi, được giải… bét cấp thành phố, hiện vật thưởng là cái bút con trâu. Tôi vừa rụt rè kể tới bút, thế là cả nhóm lại bập ngay vào chuyện bút chuyện mực, liên tu bất tận. Đúng là mấy anh giặc già nghiện ôn nghèo kể khổ, nhấm nháp chuyện ngày xưa, có nằm gác chân lên nhau tán suốt đêm cũng chả thể nào dứt.

Đã học chữ thì phải có bút. Cây bút gắn với đời đứa học trò. Bu tôi hồi xưa mỗi khi thấy thày tôi vụng dại không biết cày bừa, thạo đan rổ đan rá như người ta, thường đùa “Ai ơi chớ lấy học trò/Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Chả là thày tôi vốn theo nghiệp học hành, từng thạo chữ nho, chữ Pháp, từng làm thư lại ở phủ Kiến Thụy. Cách mạng vô sản cướp chính quyền thành công, không còn chỗ dung thân, thày tôi về làm ruộng. Chỉ quen với cây bút, với chữ nghĩa sách vở thánh hiền, nên giờ vụng đường cày cuốc. Tôi chưa từng thấy thày tôi cầm cày bao giờ. Ruộng nhà tôi hồi chưa vào hợp tác xã, rồi ruộng 5% rau xanh về sau này, mỗi khi cần cày bừa đều phải thuê, phải nhờ cụ Đẹn, chú Mịch, cậu Thê, chị Nhỡ làm giùm. Nhưng được cái, thày tôi biết thân biết phận, ông trời đã sắp đặt như thế, ấn cái bút vào tay mình, chứ không ấn cày, thì phải chịu chứ sao. Bù lại, thày tôi tự cải tạo bản thân, chả mấy mà rất giỏi trồng trọt, chăm sóc hoa màu, trồng cây ăn trái, trồng dưa hấu, đỗ, khoai tây, cải tàu, cà chua, thuốc lào, nấu nướng cũng rất ngon rất khéo. Bu tôi thường nói với các con, thày chúng mày là nhất, dù không biết đi cày. Mà quả thế thật, cho đến bây giờ, thày tôi ở cõi xa trên cao tít kia đã mấy chục năm rồi, mấy chị em tôi mỗi khi gặp nhau, hồi tưởng chuyện cũ, vẫn bảo nhau thày mình nhất, hậu sinh chị em mình và con cháu không bằng ngón tay út của cụ.