Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn ký ức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ký ức. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Bất chợt người muôn năm cũ

Dọn dẹp tủ sách cũ đầy bụi, bà xã tôi lôi ra một đống sách đen sì, giấy vàng khè, cầm lên lật giở ra là gẫy vụn rơi lả tả. Đám ấy tôi mua từ thời đầu thập niên 80, có những cuốn giá chỉ tiền hào, tiền đồng, chẳng hạn bộ “Sông Đông êm đềm” của M.Solokhov 4 cuốn (in 1983), giá 14 đồng/cuốn; tập truyện ngắn “Những dấu chấm phía chân trời” của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú (in năm 1983) có 7 đồng rưỡi, cuốn tuyển thơ “Tình bạn tình yêu” 8 hào, v.v..

Hầu hết đã giòn, hỏng do hồi ấy giấy chất lượng rất kém (nhiều trang còn cộm hẳn cục bã mía hoặc mẩu rơm), in mờ, chữ nhỏ, lại bảo quản không tốt. Nó là thứ tài sản của niềm đam mê, bỏ đi tiếc lắm. Bà xã cười bảo chữ thế kia, giấy thế kia, mắt mũi kèm nhèm thế kia, có đọc được nữa không mà tiếc.

Giá sách chỉ tính bằng đồng, bằng hào nhưng thực ra không rẻ, bởi hồi ấy lương dạy học 64 đồng, chi ăn uống sinh hoạt đã hơn 5 chục, mua sách là liều lắm. Có lần tôi đang ngẩn ngơ ngó những cuốn sách thèm mua lắm mà không đủ tiền, dùng dằng “bước đi một bước, giây giây lại dừng” ở hiệu sách quốc doanh (hồi ấy cái gì cũng quốc doanh, tiệm phở quốc doanh, hiệu cắt tóc, hiệu chụp ảnh cũng quốc doanh, sản phẩm của Đỗ Mười) đối diện chợ Bình Tây (khu Chợ Lớn) thì ai vỗ vai cái bộp.

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2025

Chuyện đoàn (phần 2)

Rốt cục, Thành được kết nạp đoàn, là đoàn viên nhưng lại đi bộ đội, cùng đợt với thầy Mễ chủ nhiệm, các bạn Như, Thảo, Tiến, Thanh, Sơn, Lĩnh, Biên tây... Tôi được hoãn bởi anh ruột đang đánh nhau bên Lào rồi. Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn, tháng 4.1972. Đoàn viên Thành vào mặt trận Quảng Trị, cái cối xay thịt thành cổ hè 1972, may nhờ phúc ấm tổ tiên, ông bà phù hộ, nên chỉ sứt mẻ trở về. Cứ mỗi lần nhắc tới đồng đội thành cổ, y mắt đỏ hoe, khóc rưng rức.

Nhắc tới đoàn, đừng quên tên của nó. Những năm 60 - 70, tên Đoàn thanh niên lao động Việt Nam, bởi đảng sinh ra nó là Đảng lao động Việt Nam. Cha nào con ấy. Giỏ nhà ai, quai nhà nấy. Nghe khá gần gũi, chả cộng sản cộng siếc xa lạ như sau này. Khi tôi vào đoàn năm 1972, trước đó nó đã được đổi thành Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh, sau khi cụ Hồ mất mấy tháng. Tới năm 1976, đất nước thống nhất, lại có tên mới - Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Đổi xoành xoạch. Người ta giải thích rằng đổi để phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Cũng chả biết có hay hơn không, chứ tôi thấy mới như cũ, có thêm chữ “cộng sản” vào, khô đoàn nhạt đảng, nặng chính trị chính em, già bỏ cụ.

Nhớ hồi đoàn thay tên năm 1976, ông anh tôi bảo, cứ Liên Xô có gì, tên gì, thì ta bắt chước cái ấy, tên ấy. Nó có chính phủ/thủ tướng thì ta copy chính phủ/thủ tướng. Nó đổi chính phủ thành hội đồng bộ trưởng/chủ tịch hội đồng bộ trưởng, thì ta lon ton đổi theo. Ông Phạm Văn Đồng từng đóng cả thủ tướng lẫn chủ tịch hội đồng bộ trưởng, những gần 32 năm. Ông Phạm Hùng cũng là chủ tịch hội đồng bộ trưởng chứ không phải thủ tướng, tới lúc chết (giữa tháng 3.1988). Một thời gian sau, Liên Xô đổi mới… như cũ, quay về tên chính phủ/thủ tướng, ta cũng chuyển mình đổi mới… như cũ. Đèn cù vòng quanh. Tên đoàn cũng đổi, na ná đám Komxomon Liên Xô vậy. Anh tôi còn thắc thỏm, tao cứ tiếc cái tên có chữ “lao động” thời Vũ Quang làm bí thư thứ nhất (ông này có bà vợ là diễn viên nổi tiếng, đẹp lắm), vừa sát hợp, vừa chân thật, giản dị.

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2025

Chuyện đoàn

Đoàn mà tôi nhắc trong bài này là đoàn thanh niên, thanh niên cộng sản, cánh tay đắc lực của đảng. Họ còn gọi là cánh tay phải. Có phải cánh tay không, tay phải hay tay trái, thú thực tôi không biết.

Hôm qua 26.3, như thường lệ là ngày kỷ niệm sinh nhật đoàn. Năm nào cũng vậy, người ta làm ầm ĩ lắm. Năm nay lặng hơn nhạt hơn, có lẽ do năm lẻ. Đoàn sinh ngày 26.3.1931 (thì nghe nói thế, chứ bịa ra một ngày nào có khó gì, ngày sinh ngày chết còn bịa được cơ mà), tính đến 2025 tròn 94 niên. Xứ này rất lạ, 94 thì bị coi là năm lẻ, nhưng 95 (năm sau đó) lại là năm chẵn. Không chỉ đoàn, mà với cả đảng, nước, các idol đều được tính kiểu vậy.

Ở một nước rất sính hình thức, thích hoành tráng cờ quạt, tượng to nhà lớn thì việc tổ chức kỷ niệm này nọ quanh năm suốt tháng. Không lễ lạt chính trị, có khi lại buồn, thiếu sinh sắc. Tốn tiền nhưng vui, quên đi cái nghèo. Về trò này, Triều Tiên là nhất, xứ ta chưa đạt tầm.

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 9, cuối)

Cuốn “Nhãn đầu mùa” viết về cái gì mà đến nỗi hai tác giả Xuân Tùng - Trần Thanh bị đánh lên bờ xuống ruộng? Đọc nó lâu lắm rồi, từ đầu thập niên 60 tới giờ đã hơn 60 năm, tôi không còn nhớ chi tiết nữa, nhưng vẫn mang máng rằng “Nhãn đầu mùa” là chuyện về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Hưng Yên. Nơi này có đội nữ du kích Hoàng Ngân (bà Ngân là cán bộ phụ nữ, bị quân Pháp bắt, quyết không khai, chịu xử bắn. Sau khi bà Ngân mất, đội du kích nữ ở Hưng Yên lấy tên bà đặt cho đội) chiến công lẫy lừng, giặc cũng phải khiếp sợ. Hưng Yên thời Pháp có bà Hoàng Ngân, Hải Dương có bà Mạc Thị Bưởi (giờ ngay trung tâm Sài Gòn, quận 1, nối với đường Đồng Khởi có đường Mạc Thị Bưởi, nghe đâu giá đất chục tỉ mỗi mét vuông), Thái Bình có bà Nguyễn Thị Chiên “tay không bắt giặc”…

Cùng sát cánh chiến đấu với đội nữ Hoàng Ngân là một đơn vị bộ đội vệ quốc, tất nhiên đàn ông. Cứ có đàn ông đàn bà, lại trẻ nữa, là sinh chuyện. Yêu nhau, để ý nhau, hẹn hò, tỏ tình.Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Yêu nhau đâu có tội. Trong chiến tranh, tình yêu thường đẹp đẽ và bi thương. Ông Nguyễn Đình Thi chả viết “Anh yêu em/Và yêu khẩu súng trường trên vai em” là gì. Các tác giả “Nhãn đầu mùa” kể về mối tình như vậy. Nói thật, chuyện của cô du kích Tý với anh bộ đội, chỗ tả mùi mẫn nhất cũng chỉ là cái hôn nhè nhẹ lên… trán, là ôm nhau thấy bộ ngực nóng bỏng phập phồng, rạo rực rạo rực. Chỉ tả bạo đến thế thôi, bọn trẻ bây giờ mà đọc lại chẳng lăn ra cười, tưởng “trái cấm” thế nào, chứ văn chương bây giờ đầy thứ gấp tỉ lần, còn đưa vào cả sách giáo khoa cho trẻ con học nữa, gọi là giáo dục giới tính.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 7)

Như đã kể, công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải được coi là dòng sông nhân tạo lớn nhất miền Bắc suốt mấy chục năm trước khi đất nước thống nhất (1975). Đó là kết quả của ý chí “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, “thay trời chuyển đất làm lại giang sơn” mà chính quyền luôn kêu gọi dân thực hiện. Cũng khiếp. Lúc đầu, người ta (nhất là bộ máy tuyên truyền, báo Nhân Dân, đài Tiếng nói VN) gọi nó là kênh, kênh Bắc Hưng Hải, sau thấy phải xứng với quy mô, sự đồ sộ, hoành tráng của nó, gọi lại bằng tên kiểu Tàu, thành “đại thủy nông Bắc Hưng Hải”, còn dân thì cứ giản dị “sông đào”, “kênh Bắc Hưng Hải”.

Lúc còn bé, tôi chỉ biết nó qua bài học lớp 3 “Đại thủy nông Bắc Hưng Hải”, nhưng anh tôi đọc nhiều biết nhiều bảo rằng nó là dòng sông nhân tạo lớn thứ nhì từ trước tới nay tại Việt Nam. Thứ nhất là kênh/kinh Vĩnh Tế ở miền Nam thời nhà Nguyễn. Kênh này do ông quan trấn thủ Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) khởi xướng, chỉ huy dân đào đắp, chạy dài mấy chục cây số, kéo từ An Giang tới tận Kiên Giang, vừa là công trình thủy lợi (cấp nước tưới và thoát lũ lụt, nói ngắn gọn là tưới tiêu) cho đồng ruộng mấy tỉnh, vừa cho giao thông, và nhất là tạo tuyến phòng thủ bảo vệ biên cương, v.v.. Đào xong, ông Thoại xin vua đặt tên kênh. Vua quyết ngay, kênh Vĩnh Tế, tên bà vợ ông Thoại. Công nhận vua thế mới là vua. Vì vậy, nó có tên kênh Vĩnh Tế. Còn dân kính phục, biết ơn ông Thoại thì gọi bằng cả tên kênh Thoại Ngọc Hầu, kênh Nguyễn Văn Thoại. Đều là một. Yêu vợ, trọng vợ, nước nam ta nhất ông Thoại, cụ Tú Mỡ cũng không bằng, mấy anh tôi bảo vậy.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 6)

Lại nói, hai anh em cứ mải miết đạp xe để làm sao vào được nội thành Hà Nội trước 9 - 10 giờ tối. Ông đạp xe là anh họ, ông có nhà phố Triệu Việt Vương cũng anh họ. Ông này cùng vợ con vẫn bám thủ đô, không đi sơ tán. Gan cóc tía. Phải tới sơm sớm bởi nhà chỉ là nửa căn hộ, chia đôi với một gia đình khác, mỗi nửa độ chừng hơn chục mét vuông. Anh tôi gia đình 5 - 6 người gói ghém trong diện tích chật chội ấy, như cá hộp. Nếu tới muộn quá, cổng vào đầu hẻm bị khóa, họ đi ngủ cả thì hai anh em chỉ có nước ngủ vườn hoa hoặc lề đường. Đang cuối thu, trời đêm rất lạnh. Chưa năm nao mùa thu và mùa đông giá lạnh như năm 1972.

Đi được một đoạn khá dài, trong ánh tà dương, anh tôi chỉ về nơi xa bảo đó là nông trường Tam thiên mẫu. Nghe cái tên thì vận ra ngay, nông trường rộng 3 nghìn mẫu, mà mẫu theo cách gọi mới tức hecta. Rộng kinh. Miền Bắc thời mắt nhắm mắt mở cứ thấy Liên Xô, Trung Quốc có gì thượng vàng hạ cám là học cho bằng chết, bê về thực hành. Phần lớn là cám, kể cả cái có tên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 5)

Ai đã từng từ Hải Phòng lên Hà Nội bằng xe khách Ba Đình những năm thập niên 60 - 70 chắc còn nhớ điều này. Đường số 5 nối 2 thành phố lớn nhất miền Bắc khi ấy được xem như tuyến đường bộ đẹp nhất miền Bắc. Dài 104 cây số, nó chạy qua 3 tỉnh thành Hải Phòng, Hải Hưng (sáp nhập Hải Dương + Hưng Yên) và Hà Nội. Quả thật người Pháp đã xuất sắc về xây dựng đường sá, công trình giao thông, để lại cho xứ này di sản đáng nể, dùng tiếp cả trăm năm.

Suốt bao năm, sau khi Pháp rút về nước, chính quyền mới không chịu thừa nhận điều ấy, thậm chí còn đưa vào sách giáo khoa, vào các cuốn sử quốc doanh rằng nó (Pháp) làm đường sá, cầu cống, nhà ga cũng chả phải tốt đẹp gì, mà chỉ để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, bóc lột vơ vét tài nguyên bản xứ, để thuận tiện chuyên chở nguyên vật liệu về chính quốc. Nó làm cho nó chứ cho gì dân mình. Không ơn huệ chi cả, chỉ có căm thù. Giờ đây, không hiểu những người ngồi trong tòa nhà dinh toàn quyền Đông Dương (nay là phủ chủ tịch nước) hoặc coi biểu diễn ở nhà hát lớn Hà Nội - hai tòa nhà đẹp nhất Đông Nam Á, có còn suy nghĩ vậy không.

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (phần 4)

Đầu tháng 10.1972, tôi nhận được giấy báo nhập học. Khoa văn sơ tán tuốt tận ven sông Cầu, nằm rải rác ở hai huyện Yên Phong, Hiệp Hòa tỉnh Hà Bắc, muốn từ huyện này qua huyện kia phải lụy phà Đông Xuyên (nghe đâu giờ đã có cầu Đông Xuyên đẹp lắm). Cái tên tỉnh thực ra chẳng gắn gì với tên 2 tỉnh cũ Bắc Ninh, Bắc Giang nhập lại. Đơn giản nó ở phía bắc Hà Nội nên gọi là Hà Bắc thôi, nghe người nhớn bảo vậy.

Lúc này chiến tranh phá hoại lần 2 của Mỹ ở miền Bắc rất ác liệt. Đường số 5, con đường duy nhất từ Hải Phòng lên Hà Nội (và ngược lại, từ Hà Nội xuống Phòng) bị bom đánh tan nát. Ngày nào cũng bom rơi đạn nổ, nhất là trên 3 cây cầu chiến lược trọng yếu Long Biên, Phú Lương, Lai Vu. Cầu Long Biên được tên lửa và súng cao xạ bảo vệ kỹ lưỡng nên còn, chứ Phú Lương và Lai Vu đã bị đánh sập, phải thay tạm bằng cầu phao. Ở Hải Phòng, mấy cầu Niệm, Rào, Thượng Lý sập hết. Tới đợt 12 ngày đêm tháng 12 thì cả cầu Long Biên cũng bị bom laser cắt đứt luôn.

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 3)

Thời thập niên 70 thế kỷ trước (thêm chữ thế kỷ vào nghe xa xôi quá nhưng thực ra cách nay mới hơn 50 năm), từ Hải Phòng quê tôi lên Hà Nội có 2 cách (2 lối) là đường sắt và đường bộ (đường số 5). Đường sắt, đi riết nhớ tên từng ga, nếu tính từ Hà Nội về Phòng qua các ga Hàng Cỏ, Long Biên, Gia Lâm, Phú Thụy, Như Quỳnh, Lạc Đạo, Cẩm Giàng, Cao Xá, Hải Dương, qua một số ga trên đất Hải Dương nữa thì tới đất Phòng với Dụ Nghĩa, Chợ Hỗ, Vật Cách, Thượng Lý, rồi đích cuối là ga Hải Phòng trên đường Lương Khánh Thiện, đường này từ thời Pháp dân quen gọi phố ga. Trên đất Hưng Yên, tàu hỏa chỉ dừng ở 2 ga Như Quỳnh, Lạc Đạo, mươi phút rồi lại xọc xạch xọc xạch đi, có nhẽ vì thế hiểu biết của tôi về vùng đất nhãn cũng chả được nhiều.

Nhưng bù lại, nếu mua được vé ô tô theo đường bộ số 5 thì ngó nhìn cảnh sắc Hưng Yên cũng khơ khớ. Đường 5 là quốc lộ, con đường to nhất ở miền Bắc lúc ấy, còn hơn cả đường số 1 xuyên Việt khi đó bị chặn lại trên đất Vĩnh Linh, chỗ đầu cầu Hiền Lương bờ bắc sông Bến Hải. Suốt 4 năm rưỡi đại học, mỗi năm đi về ít nhất 2 lần hè và tết, tôi thường chầu chực, xếp hàng mua vé xe khách, hai đầu bến là bến Quần Ngựa (Hải Phòng) và bến Nứa (bến Long Biên, Hà Nội). Giờ nhớ lại cảnh “tham gia giao thông” xe khách thuở ấy, như có dòng ớn lạnh dọc sống lưng, sởn gai ốc, bởi sự kinh hoàng, khốn nạn không thể tả còn hằn trong ký ức.

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Vụn về Hưng Yên (kỳ 2)

Không phải chỉ có các cụ văn nghệ sĩ như Khương Hữu Dụng, Nguyễn Văn Tý, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu nhắc nhỏm về Hưng Yên. Trong thơ văn nhạc miền Bắc thời trước 75 người ta vẫn biết tới Huy Cận với bài “Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc” (bài này được đưa vào sách Trích giảng văn học, tức sách giáo khoa bây giờ), với Chế Lan Viên chỉ vài câu thoáng qua thôi nhưng khá ấn tượng “Ong bay khu nhà Tỉnh ủy Hưng Yên/Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em” (một tay bạn tôi thời lớp 10, anh Vũ Trường Thành, có lần bảo tao mà biết làm thơ ngọt như ông Chế, tao tán thì khối con chết), rồi thơ về chị Phạm Thị Vách “giỏi thay con gái đàn bà mà ghê” chiến sĩ thi đua toàn quốc ngành thủy lợi, sau được phong anh hùng lao động… Hưng Yên tuy “nhỏ nhưng có võ” chứ không nhàn nhạt như nhiều tỉnh miền Bắc.

Thời tôi học cuối cấp 2 (lớp 7) và những năm cấp 3, nhà trường và đoàn thanh niên thường xuyên kêu gọi phải học tập 4 tấm gương, bây giờ gọi là idol: Pavel Corsaghin, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Mã Lương và Vương Đình Cung.

Pavel thì ai cũng biết mà không biết, bởi chỉ nghe người ta tán tụng qua sách, cuốn “sách gối đầu giường” “Thép đã tôi thế đấy”, nhất là cái câu “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận bởi những năm tháng đã sống hoài sống phí” (chả biết ông Thép Mới dịch có thêm câu này vào cho hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam không), vừa rồi có một ông to trích dẫn lại nhưng giấu nguồn khiến thiên hạ khen nức nở sao cụ ấy lập ngôn thấm thía thế.

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Vụn về Hưng Yên

Bây giờ mà nhắc tới Hưng Yên, thiên hạ gọi là “đu trend”, nhưng bài này đã ủ trong ký ức nhà cháu lâu rồi, giờ mới biên ra thôi.

Do nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên vùng Hưng Yên, Hải Dương xưa được gọi là xứ đông, tỉnh đông. Tôi nhớ hồi còn bé học cấp 1, hình như lớp 4, được học bài thơ “Nhi đồng Nguyễn Văn Bảo” của cụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Cụ Tú ca ngợi em thiếu nhi tên Bảo người tỉnh đông, “Nguyễn Văn Bảo mới lên mười tuổi/Quê quán em ở dưới tỉnh đông/Em là con một nhà nông/Cha mẹ vất vả sống trong bần hàn/May nhờ có bình dân học vụ/Em Bảo ta cũng đủ học hành/Người lanh lợi trí thông minh/Em là một cậu học sinh hoàn toàn”… Những ai sinh thập niên 50 ở miền Bắc mà có đi học đều thuộc bài này.

Nhà thơ kể em Bảo yêu nước thương nòi, tham gia kháng chiến “trong đoàn thể nhi đồng cứu quốc/Em là tay gân guốc dạ gan/Nhiều phen giúp việc giỏi giang/Cho bộ đội hoặc cho đoàn dân quân”. Rồi “Đến hôm mùng sáu tháng tư/Bỗng đâu giặc Pháp lù lù kéo sang/Qua Kẻ Sặt ngang tàng hung dữ/Khác nào như một lũ sài lang”, em Bảo nhập đội quân du kích, làm giao liên cho bộ đội đánh giặc, rơi vào ổ phục kích, “Bị chúng bắn tứ tung em ngã/Chết thiêng liêng em đã hả lòng/Tuổi thơ chí khí anh hùng/Nêu gương anh dũng nhi đồng Việt Nam”. Đó là người Hưng Yên đầu tiên mà tôi biết qua văn nghệ. (ở đây ghi chú thêm: Kẻ Sặt thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, giáp Hưng Yên. Nơi này có đồn rất lớn của quân Pháp, đánh Hưng Yên cũng kéo từ Kẻ Sặt). Lạ là bây giờ gõ tìm khắp nơi, kể cả Gu gồ cũng không thấy bài này. Nó chỉ còn trong trí nhớ U70, U80, họ về chầu ông bà vải là mất luôn.

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2024

Huy Đức (kỳ 4)

Huy Đức, nói theo kiểu Nguyễn Huy Thiệp, gốc nông thôn nông nghiệp nông dân (tam nông) đặc sệt, nhưng trời đặc ân cho nghiệp viết, giỏi ít ai bằng. Làm báo, y mau chóng tạo dựng vị trí đặc biệt. So với người trong nghề, y nổi trội ở nhiều mảng miếng, mà tài đặc biệt là đặt câu hỏi khi phỏng vấn. Những câu hỏi giản dị, không công thức, không uốn éo mưu mẹo, không đao to búa lớn, không lừa miếng, nhưng cuốn người được hỏi vào ý định của đứa hỏi, nhất là luôn đáp ứng được khát khao tìm hiểu của bạn đọc. Tôi đã từng đọc rất nhiều bài phỏng vấn của Huy Đức, nể lăn. Nhiều người trong đám bạn nghề không giấu diếm mà khen rằng, riêng về phỏng vấn thì Huy Đức là số 1. Tìm ra kẻ cạnh tranh hơi bị khó.

Chả thế, bác Nguyễn Thị Ngọc Hải, một tay làm báo lão luyện, từng là đàn chị, "sếp" của sếp tôi, lâu nay được trường đại học mời dạy nghề báo cho sinh viên, khi giảng chuyên đề phỏng vấn đã nghĩ ngay tới việc triệu Huy Đức tới làm giáo cụ trực quan. Kinh nghiệm thực tế và tư duy sắc sảo của y còn hơn chán vạn thứ lý luận khô khan của các trường báo chí, tuyên giáo, tuyên huấn, tuyên truyền. Thời những năm 90, khi chưa làm báo, tôi và các đồng nghiệp dạy học chăm đọc báo nói với nhau "thằng Huy Đức giỏi nhất ở phỏng vấn, bởi nó đặt câu hỏi giỏi cực kỳ, khiến con cua trong lỗ cũng phải bò ra".

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2024

Huy Đức (kỳ 3)

 Cùng thời gian 1996 ấy, Yên Ba cũng về. Tờ báo nào có y tòng sự quả là điều may mắn, cũng xêm xêm như có Huy Đức vậy. Trước đó, tôi chỉ nghe danh con người có cái tên hơi Tàu này, nhưng biết đó là người tài. Giỏi ngoại ngữ, viết về đủ mảng, nhất là mảng phóng sự, bóng đá và văn học cổ. Văn chương câu cú ngữ pháp cực kỳ chuẩn mực. Báo Thanh Niên mà có Yên Ba khác gì Lưu Bị vời được Khổng Minh mà không cần phải “tam cố thảo lư”. Tôi còn nghe y là chuyên gia về sách cổ, nhất là bộ “Tam quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung) do cụ Phan Kế Bính (tác giả của cuốn “Việt Nam phong tục” dịch), cụ Bùi Kỷ hiệu đính, từng được Nhà xuất bản Phổ thông ở miền Bắc in năm 1959. Nghe kể Yên Ba yêu sách còn hơn cả yêu vợ, mà y mấy vợ thì tôi không rõ.

Hồi trước, hiếm nhà nào có bộ truyện 13 tập này, tôi thời đi học cũng chỉ đọc ké. Mãi tới năm 2009, Yên Ba liên kết với Nhà xuất bản Văn học tổ chức in lại bộ Tam quốc Phan Kế Bính 13 tập, tất cả chữ nghĩa, màu sắc, tranh vẽ, dấu chấm dấu phẩy y xì, không khác một chi tiết nào, quả thật rất đáng nể về thú mê sách. Tôi lập tức ra ngay nhà sách gần cơ quan tậu về 2 bộ, một cho mình, một biếu bác Đặng Thanh Tịnh, người mê sách. Một hôm, lão Nguyễn Một gửi cho tôi cuốn tiểu thuyết mới mới của y (Một) “Giờ thứ 6 và giờ thứ 9”, lật coi người biên tập (do bệnh nghề nghiệp), thấy đề Nguyễn Văn Yên (Yên Ba), quá khiếp. Ai dám bảo “Yên Ba giang thượng sử nhân sầu”, nhầm to. Người tài quanh ta lắm thế. Có ai đó trong cuộc gặp “mừng sinh nhật yên ba” ở Sài Gòn còn nói nhỏ nhưng đủ cho mọi người nghe thấy, nó còn đóng quan 5 trong quân đội, ở báo Quân đội nhân dân chứ đùa (cuộc gặp này tôi sẽ biên sau)

Huy Đức, Dương Minh Long, Yên Ba trổ tài ở Thanh Niên, người được vài tháng, kẻ ráng hơn năm, rồi lần lượt rút, lặng lẽ ra đi. Sau này cả Tuấn Khanh, Trần Việt Đức cũng thế. Có lẽ đất chưa đủ lành cho chim đậu, trời chưa đủ cao rộng cho đại bàng tung cánh. Mấy hôm trước, sau khi Huy Đức bị bắt, anh Nguyễn Công Thành, một tay ảnh sừng sỏ, thâm niên cao nhất ở báo Tuổi Trẻ cho tới giờ, bảo tôi rằng Huy Đức đã nhận ra rằng về Thanh Niên không được tự do tác nghiệp như từng hy vọng. (còn tiếp)

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2024

Huy Đức (kỳ 2)

Với ai chả biết, chứ riêng tôi, sự khoe mình là bạn của Huy Đức, có chơi với y, thì đó là trò lố, cú mượn lông công, dựa hơi mượn tiếng, chả hay ho. Mình chẳng là chi so với Huy Đức, dù thỉnh thoảng gặp nhau. Bạn danh tiếng của Huy Đức có hàng trăm hàng nghìn khắp trong nam ngoài bắc, mình là cái thá gì mà định chen vào chốn ấy.

Tôi vào đời bằng nghề dạy học. Dạy mãi đến… phát chán. Thực ra thập niên 80 có người này người kia rủ đi làm báo (báo Tuổi Trẻ, báo Tin Sáng) nhưng “lòng trẻ còn như cây lụa trắng”, quyết không bỏ nghề. Thời ấy, thỉnh thoảng người ta phát trên loa bài hát của cụ Nguyễn Văn Quỳ “Yêu đời bao nhiêu ta càng yêu nghề bấy nhiêu/Đời phơi phới vui, vui sách thơm thơm mùi giấy mới”. Năm 1982, tôi nói với anh Hồ Quang Hy làm ở báo Tuổi Trẻ khi anh rủ đào ngũ, em yêu nghề dạy lắm, em không đi đâu.

Người tính không bằng trời tính. Tới năm 1992 đói vàng mặt, tôi đành bỏ nghề đi làm thuê cho một công ty Hồng Kông. Năm 1996, công ty chuyển tới Thủ Đức, tôi đầu quân về báo Thanh Niên, chính thức tòng sự nghề báo, cái nghề đã đem cho mình nhiều niềm vui nỗi buồn. Giá như tôi nghe lời bác Hy thì còn về Tuổi Trẻ trước cả Huy Đức.

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2024

Huy Đức

Thoạt kỳ thủy, phải nói ngay, tôi viết bài này theo suy nghĩ, cảm nhận của tôi về một người đã quen/chơi mấy chục năm. Sự không đồng điệu với người khác chắc chắn có, thậm chí nhiều. Chả hạn tôi cũng quen một anh đồng nghiệp tòng sự bên đài VOV (báo nói), cũng từng không ít lần trò chuyện, y bảo sao lúc nào nói tới San vẩu chỉ thấy ông khen, nó có gì mà khen. Tôi không cãi, bách nhân bách tính, cãi làm gì.

Huy Đức, tức Trương Huy San (tên cúng cơm, hồi xưa tên thật của người nào đó, nhất là tên theo giấy khai sinh, thì gọi là tên cúng cơm, chứ không phải để chỉ người đã chết), tức Osin - một biệt ngữ lừng danh, thậm chí nổi tiếng hơn cả bút danh làm nghề và tên thật.

Những người/kẻ ghét Huy Đức cũng không thiếu, vì lý do nào đó, họ đặt cho đương sự cái tên xấu để thỏa bụng thù hằn của mình, chẳng hạn San hô, Đức vẩu. Tất nhiên, người bị đặt tên chả vì thế mà kém cỏi đi.

Nhưng gì thì gì, Huy Đức là một nhà báo, ký giả tài năng, thậm chí không ít người cho rằng làm báo giỏi nhất xứ này. Kể ra tìm một nhà báo giỏi nước ta thời hiện đại cũng không khó, kiểu như Thép Mới, Hoàng Tùng, Hữu Thọ, Sơn Tùng, Trần Đình Vân, Xuân Ba, Trần Đức Chính (Lý Sinh Sự), Hữu Ước…, tinh dững đấng bậc, nhưng hình như sự so cứ khập khiễng sao sao ấy, bởi cái giỏi, tài năng của những vị đó xét cho cùng vẫn là dạng “chim hót trong lồng”, múa tay trong bị, kiểu như “anh muốn đảng gọi anh đến nơi/hội ý về cuộc sống/điều động anh vào bộ tâm hồn quần chúng/giúp trung ương xây dựng những con người” (Lê Đạt). Vùng vẫy mấy cũng không thoát được đảng, vòng kim cô, chỉ như gã Tôn Ngộ Không phò Đường Tăng mà thôi.

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2024

Chuyện uống chè (kỳ 7, cuối, bởi chè châm nước mãi cũng nhạt)

Sinh thời thày (cha) tôi rất thích uống chè. Sở thích này có lẽ hình thành từ hồi trẻ làm thư lại (một dạng thư ký) ở phủ Kiến Thụy tỉnh Kiến An. Tỉnh này về sau được chính quyền mới sáp nhập vào Hải Phòng, giờ thị xã Kiến An cũ chỉ là một quận. Nói gì thì nói, tôi vẫn thích cái địa danh “thị xã” để gọi những đô thị các tỉnh, chả hạn thị xã Lạng Sơn, thị xã Hồng Gai, thị xã Tây Ninh, thị xã Vĩnh Yên… giản dị, hiền lành, chứa đầy yêu thương. Đạo diễn Đặng Nhật Minh con giai cụ Đặng Văn Ngữ nổi tiếng với bộ phim “Thị xã trong tầm tay” về Lạng Sơn thời đánh nhau với cộng sản Tàu năm 1979. Cứ thử nghĩ, nếu là “Thành phố trong tầm tay” thì nó chuồi chuội thế nào ấy, chắc chả được người đời yêu thích mấy.

Thủ phạm xóa gần sạch các tên thị xã đầy gắn bó, bắt đôn lên biến thành thành phố, thành phố Lạng Sơn, thành phố Cao Bằng, thành phố Hà Tĩnh, thành phố Cà Mau… chính là Nguyễn Tấn Dũng 3X. Dưới triều ông ta, để cho máu, cho oai, cứ “thành phố hóa” hết, dù phố xá chỉ toen hoẻn, vẫn trơ ra những ruộng đất, trâu bò, đường như đường làng. Ông anh tôi có lần bảo nó (3X) không vừa đâu, đổi cái tên để tăng giá trị đất đai, buôn đất đấy. Biết bao dự án bất động sản cắm vào nông thôn khi thị xã bị lên thành phố là nguyên nhân chính gây những cưỡng chế, đền bù giải tỏa, cướp đoạt đất đai, đẩy nông dân vào cảnh mất đất, hết kế sinh nhai, tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây. Thủ đoạn ấy, lại được sự trợ giúp của luật đất đai “sở hữu toàn dân”, nông dân không còn đường thoát, thành anh Pha chị Dậu thời cộng sản.

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024

Chuyện uống chè (kỳ 6)

Nhắc chuyện buôn chè của mấy ông sinh viên giỏi buôn hơn học, lại bần thần nhớ hồi bu tôi buôn chè, xé rào, bươn chải bằng mọi cách để sống sót trong một nền kinh tế ngày càng lụn bại những năm thập niên 70 - 80 ở miền Bắc.

Nhà tôi làm ruộng, đất đai bị trưng thu, góp hết vào hợp tác xã (thực chất là cướp, rồi mấy chục năm sau HTX tan rã vẫn không được trả lại một mét nào). Sau năm 1975 nhà nước tiếp tục áp dụng cách cướp này ở nông thôn miền Nam, với tên gọi tập đoàn sản xuất (thay cho HTX đã quá nhiều tiếng xấu) để tiến lên nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. May mắn thay, nông dân miền Nam không mặn mà với trò hình thức nên nó bị chết yểu.

Không còn ruộng, chỉ làm công ăn điểm rồi quy ra thóc, mỗi vụ tính đầu người được vài chục ký thóc, xay thành gạo đủ ăn 2 - 3 tháng nên đói triền miên. Bu tôi tháo vát, ngoài việc cấy hái trên đồng, thường thức khuya dậy sớm làm hàng xáo, tranh thủ buôn bán lặt vặt, mở quầy hàng nho nhỏ nép gian đầu hồi, trông ra đường, giao cho thày tôi và con cái trông nom. Thày tôi học nho vụng việc cày bừa nên nhận lĩnh trọng trách cứu nhà, vừa lo cơm nước vừa trông coi “cửa hàng”, nhưng sự mua hàng thì vẫn phải bu tôi.

Thứ Tư, 27 tháng 12, 2023

Chuyện uống chè (kỳ 4)

Bài kỳ trước, nhà cháu nói chuyện uống nước vối thay chè, đọc lại sực nhớ quên một chi tiết. Nước vối nấu bằng lá tươi, lá khô và nụ vối đều được, nếu biết cách nấu/hãm, thậm chí còn thú vị hơn cả chè móc câu. Riêng lá vối khô hoặc nụ vối, cho thêm vài nhánh lá đăng cay khô vào thì có khi còn ngon hơn cả Coca-Cola, Pepsi bây giờ.

Từ dạo vào nam, tôi ít được uống nước vối, lại càng không có dịp nếm mùi lá đăng cay. Thứ lá nho nhỏ như chiếc ngòi bút lá tre, mọc dày hai bên nhánh, nhọn, từa tựa lá dương xỉ. Thày tôi mỗi lần nấu siêu nước vối chả bao giờ quên bỏ mấy nhánh đăng cay vào. Mùi vối đậm đà, thêm hương thơm và vị cay cay dịu nhẹ của lá đăng cay tạo thành thứ “ẩm thủy” khó tả. Gần nửa thế kỷ bặt vắng nó nhưng tôi vẫn cảm thấy mùi hương quê ấy quanh quẩn đâu đây.

Nước vối lá xanh nếu nấu không ngon bằng hãm. Tôi học được cách này khá tình cờ. Dạo cách nay mười mấy năm, đám đồng môn rủ nhau họp lớp, mà lại tận Đồ Sơn. Bọn cắm ở Hà Nội, Hải Phòng đi Đồ Sơn như đi chợ, với chúng nó chả có gì trở ngại, còn tôi phải vượt gần 2 nghìn cây số. Đồ Sơn vốn chỉ cách quê làng tôi chưa đầy chục cây số đường chim bay nhưng thú thực từ lúc bu tôi đẻ ra tới khi học xong cử nhân tôi vẫn không biết mặt mũi Đồ Sơn nó thế nào. Mãi đầu thập niên 80 mới mò ra, biết khu 1, khu 2, nhà Bảo Đại, bến Nghiêng…

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023

Chuyện uống chè (kỳ 3)

Miền Bắc, sống ở nông thôn, người ta uống nước vối quanh năm suốt tháng, nếu mua được gói chè “ngon” loại 2, loại 3 như chè Đại Đồng, Phú Thọ chẳng hạn thì phải để dành phòng khi có khách. Vối sẵn, hầu như nhà nào cũng trồng ít nhất một cây, góc vườn hoặc bờ ao. Uống lá tươi, cây nhiều lá quá thì bẻ cả cành vặt lá phơi nỏ cho vào bao uống dần. Nụ vối uống rất ngon, nghe nói chữa được cả bệnh liên quan tới thận, lợi tiểu, hợp với người bị bệnh đái dắt. Hồi tôi còn bé thường ăn quả vối chín, chua chua ngòn ngọt, “xơi” xong mồm miệng trông cứ như hộp đựng thuốc vẽ, lòe loẹt xanh đỏ tím vàng. Trẻ con nhà quê thứ chi cũng ăn, quả thèn đen, quả mây, quả sắn, quả bom bóp… chẳng bổ béo gì nhưng bớt được sự thèm bánh kẹo. Những năm 60 - 70 bánh kẹo là của hiếm, đường lại càng hiếm, hèn chi hồi ấy chả ai bị bệnh tiểu đường. Từ điển năm chưa xa không có các mục từ “bệnh tiểu đường”, “bệnh gút”, “mỡ máu”, “béo phì”. Thứ bệnh thường trực của dân bắc trước sau 1975 là bệnh… đói.

Có cây vối trong vườn, đủ uống quanh năm, chỉ có điều uống nó không oai vệ như uống chè, bởi nó bình dân quá. Trên đời, nghiệm thấy cứ hiếm mới quý, dù của hiếm chưa chắc đã tốt bằng thứ có sẵn. Chè và vối là vậy. Vả lại, người ta chỉ phân phối chè cho cán bộ chứ ai phân phối lá vối. Chè là thứ thang bậc, tiêu chuẩn để xếp hạng đẳng cấp, dù lá vối có ngon mấy thì thiên hạ cũng cứ nhất định phải phấn đấu lên thành phần được uống chè.

Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2023

Chuyện uống chè (kỳ 2)

Cần nói ngay điều này: Người bắc quen uống nước chè, còn người nam chuộng cà phê. Chè mang tính cổ truyền, truyền thống, dân tộc đậm đà; còn cà phê văn minh, hiện đại, mới lạ. Chỉ đồ uống đã phần nào thể hiện chất người vùng miền. Tôi cảm nhận được sự khác biệt ấy khi vào Sài Gòn nhận việc năm 1977. Hai miền tuy cùng một nước nhưng có lẽ do thời thế tác động nên quá nhiều sự khác nhau. Chẳng hạn, ngoài bắc mà mời ăn cơm thì nên hiểu đó là lời chào, còn trong nam đã mời là ăn, không phải mời “rơi”, đừng khách sáo từ chối. Nhiều nét riêng vậy lắm, để thong thả tôi sẽ kể. Vì vậy, tôi nhắc “chuyện uống chè” thì bạn hãy hiểu rằng đang nghe chuyện bắc, từ một ký ức cũng chưa xa lắm.

Miền Bắc thập niên 60 - 70. Nông thôn, nghèo, lại còn bị chiến tranh đòi “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Biết bao nhiêu gạo và người bị ném vào cuộc tương tàn. Sống được đã là sự phi thường bởi hầu như thứ gì cũng thiếu. Kể cả gói chè.