Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện thực phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện thực phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2018

Chuyện thực phẩm (phần 2): Những món ăn thèm thuồng suốt tháng năm dài

Lần trước đã nói về rau. Rau là thức ăn chính trong mâm cơm của nông dân và dân nghèo thành thị. Cả một thời đói khổ, thiếu thốn, nhìn chỗ nào cũng chỉ thấy rau, quanh đi quẩn lại tinh rau là rau. Thèm thịt thèm cá quá, có lúc than thân trách phận sao không ông giời không cho mình đầu thai vào nhà cán bộ hoặc nhà giàu. Thật đúng là trẻ con. Bây giờ thì tỉnh ngộ, mới hiểu rằng nhờ có quá khứ xanh rau như vậy mà khỏe tới tuổi này, ít bệnh tật, tiêu hóa tốt, tim mạch bình thường, đầu óc nhẹ nhõm sảng khoái. Có lúc giật mình, hóa ra các cụ xưa thật chí lý khi dạy con cháu rằng “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn không rau như đau không thuốc”. Lúc anh em chúng tôi đòi thịt, cũng giống thằng cu Tí trong sách lớp 2 đòi, thì thày (bố) tôi không thuyết phục dài dòng như mẹ cu Tí, mà chỉ bảo “Rổ rau bằng thau thuốc, con ạ”. Khi đó cứ lắc đầu quầy quậy, cho là thày bu lừa mình. Giờ thì hiểu, rau còn hơn cả thuốc.

Thày tôi tuy vụng đường cày bừa nhưng nấu ăn, chế biến rất khéo và ngon. Tôi nhớ nhất vại dưa chua của cụ. Mùa nào thức nấy, thày tôi nén cả vại sành cải tàu, su hào để ăn dần, hoặc muối dưa cải, bắp cải, rau cần, cà pháo, cà bát. Nhiều hôm tới giờ đi học tôi chỉ đánh bát cơm nguội chan nước dưa là xong bữa. Rau dưa, tương cà là nét đặc trưng không thể thiếu trong thức ăn nhà quê hồi tôi còn bé.

Nhắc tới rau, có nhẽ đừng quên món canh rau tập tàng. Tra trong từ điển thực vật không có loại cây nào tên tập tàng. Những khi trái vụ rau, mấy chị em tôi cũng như người dân quê thường nhặt một rổ nhiều loại rau dại, mọc hoang, như rau sam, dền gai, dền cơm, rau muối… nấu canh, gọi chung là rau tập tàng. Cũng có thể nấu chung với mướp, rau ngót. Hòa thìa mắm tôm, nhà nào khá hơn thì giã mấy con tôm tươi, nước đun sôi rồi bỏ rau vào, có được bát canh rau dân dã chan cơm. Chỉ nhà nghèo mới ăn canh tập tàng, nhưng bây giờ nghe nói những nhà hàng sang trọng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn, ai đòi món này họ cũng phục vụ nhưng khá đắt bởi rau sam chả mấy nơi còn. Tấc đất tấc vàng, đô thị hóa cả rồi, lấy đâu chỗ cho rau sam rau rệu.

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2018

Chuyện thực phẩm: Thức quê chỉ sẵn rau

Sau loạt bài về lương thực, có bạn đọc nhắn hỏi sao không viết về thực phẩm, tức là thức ăn thời bao cấp, thời hậu chiến. Lương thực phải đi với thực phẩm mới đủ đôi đủ bộ chứ. Lại có bạn tỏ ý hồ nghi, thắc mắc những chuyện ấy xảy ra hồi nào, ở đâu, sao nghe giống chuyện cổ tích quá…

Quả thật sự gợi ý về thực phẩm làm sống lại bao nhiêu ký ức thời chưa xa, cần phải biên ra kẻo sau này đầu óc loãng đi có muốn ghi chép cũng chả được. Và xin nói rõ ngay từ đầu, tất cả mọi điều đã kể hoặc sẽ kể đều là thực, mắt thấy tai nghe, bản thân từng trải, chủ yếu ở miền Bắc hồi thập niên 1960 - 1970, sau chút nữa là thời hậu chiến 1975 cả hai miền.

Những năm xa ấy, lương thực đã thiếu, cơm chỉ 2 lưng bát mỗi bữa, lại độn đủ thứ ngô khoai sắn bột mì thì làm gì có chuyện thực phẩm sẵn, dồi dào. Hồi tôi còn bé, thậm chí khi đã nhớn đi học cấp 2, biết nhiều nhà làng mình chỉ có cơm mà không mấy khi đủ thức ăn. Loanh quanh cũng mấy thức vườn nhà, rau là chính, chứ thịt thà tôm cá không mấy khi xuất hiện trên mâm. Con gà nuôi để nhặt hạt rơi hạt vãi, bắt con sâu con bọ ngoài vườn, khi chúng to nhơ nhỡ trở lên là thày bu đã xách ra chợ bán lấy tiền đong gạo, đố nhà nào dám cắt tiết. Giết lợn chui có khi bị đi tù. Giò chả nem mọc chỉ có trong câu chuyện khề khà hoặc dịp tết. Thức ăn trong bữa cơm của dân quê thật nghèo nàn và đơn giản.

Bây giờ ta quen gọi chung những thứ kèm cơm là thực phẩm, chứ cách nói dân dã là thức ăn. Ở huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) quê tôi, trên thị trấn cạnh cửa hàng bách hóa bán vải vóc, đồ dùng sinh hoạt, cái kim sợi chỉ… là cửa hàng thực phẩm với thịt cá, gà qué, nước mắm, xì dầu, đậu phụ, lòng lợn, rau cỏ. Chỉ những người có tem phiếu, có sổ mua hàng mới dám bén mảng hai cửa hàng này. Còn chỗ của phó thường dân là chợ Thọ Xuân gần đó, hay còn gọi là chợ huyện, chợ Tác Giang (Tác Giang là một tên gọi khác của sông Đa Độ chảy qua huyện), cũng đủ loại, chỉ có điều giá cao gấp mấy lần trong cửa hàng thương nghiệp. Vì vậy, thời ấy người ta tìm mọi cách để thoát ly, tức là làm cán bộ công nhân viên nhà nước, có sổ có phiếu mua hàng. Cái sổ ấy không chỉ để chứng tỏ đẳng cấp trong xã hội mà còn tiết kiệm được ối tiền, nhất là lương ba cọc ba đồng. Giữ sổ kỹ chẳng khác gì của gia bảo. Lỡ để mất nó với cái sổ gạo thì chỉ còn cách treo mõm, ông anh họ tôi dạy học nửa đùa nửa thật bảo vậy.