Trong bài kỳ trước, tôi có nhắc tới việc Quốc hội kỳ họp thứ 7 hồi tháng 6.2019 vừa rồi không đồng tình với ý kiến của một vị đại biểu đề nghị coi tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2. Cũng có đôi ba người trên FB nhắc nhở tôi rằng đừng lẫn lộn, đừng coi sự phủ định ấy đồng nghĩa với sự coi thường việc học ngoại ngữ bởi đó là hai điều hoàn toàn khác nhau. Nào tôi có nhầm, có coi thường gì đâu, mà xứ ta bao lâu nay, người người học ngoại ngữ, nhà nhà học ngoại ngữ, có ai coi thường học ngoại ngữ đâu. Nhà nước thậm chí cũng không hẳn coi thường, bằng chứng là trong chương trình giáo dục từ cấp tiểu học tới cấp 3, tới đại học, luôn có môn ngoại ngữ, và còn có hẳn những trường chuyên về ngoại ngữ cơ mà.
Tiếng Anh là một ngoại ngữ. Dù nó có thành ngôn ngữ thứ 2 hay không thì vẫn là ngoại ngữ, bởi xứ ta đã có thứ ngôn ngữ không phải ngoại ngữ, chính là tiếng Việt, bản ngữ. Muốn nó (tiếng Anh) là ngôn ngữ thứ 2 trong đời sống, xã hội, giao tiếp thì việc đầu tiên không phải chuyện nhà nước có chính thức coi nó là thứ 2 hay không, mà là dạy nó, như một ngoài ngữ phổ cập, đại chúng. Thực ra thời Pháp, người Việt chưa hề coi tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ 2 bởi nó chưa có mặt trong tất cả mọi hoạt động của mọi người Việt. Nó chỉ được dùng phổ biến thôi, dạy phổ cập thôi. Phải như tiếng Anh ở Hồng Công, Maylaysia, Ấn Độ hoặc Phippines thì mới là ngôn ngữ thứ 2.
Muốn ngoại ngữ nào đó trở thành ngôn ngữ thứ 2, trước đó cứ phải dạy nó cho tốt đã, phổ cập đã. Để một ngoại ngữ thành ngôn ngữ thứ 2 có khi phải mất vài chục năm hoặc vài thế hệ chứ đâu chỉ quốc hội thông qua bằng nghị quyết thì có ngay được. Nếu dễ thế thì quốc hội đã có ích.