Điều rất hay xảy ra và cũng dễ nhận thấy là trong khá nhiều bài viết báo chí hoặc văn chương hiện nay, những tác giả trẻ dùng từ Hán Việt thường bị sai, có sự nhầm lẫn rất đáng tiếc. Đành rằng ngôn ngữ luôn vận động, thay đổi, phát triển, từ ngữ được bổ sung những nghĩa mới, nhưng với không ít từ Hán Việt, nếu ta không nắm chắc nghĩa gốc của nó sẽ gây nên sự diễn đạt ngô nghê, vô nghĩa.
Trong bài này, chúng tôi xin trao đổi về hai từ “đơn” và “độc”.
Lật giở những trang báo, không khó để bắt gặp cụm từ được coi là thành ngữ chỉ sự một mình, “đơn thân độc mã”, hiểu nôm na là “một mình một ngựa”. Bảo rằng sai thì cũng không hẳn sai, nhưng đúng cũng chưa phải đúng.
“Đơn” là từ Hán Việt, nghĩa là một, một đơn vị, một mình. Bản thân “đơn” đã là một mình rồi, nên không cần phải “đơn thân” để chỉ sự một mình. Đơn cử có nghĩa là lấy một việc gì đó, một người nào đó, một chuyện chi đó để trình ra (cử) cho người khác thấy, nắm được, hiểu được. Đơn chiếc là người sống một mình, chả có ai bên cạnh. Người đàn bà đơn chiếc là người sống không chồng không con, không có người thân. Trong các cuộc thi đấu thể thao, khi mỗi bên chỉ có một người đấu thì gọi là giải đơn nam hoặc đơn nữ, nhằm phân biệt với các hình thức đấu nhiều người hơn, chẳng hạn đôi nam, đôi nữ, đồng đội. Một cô gái nào đó không lập gia đình, không cưới chồng mà tự nuôi con thì gọi là bà mẹ đơn thân. Để chỉ tình trạng ai đó một mình làm việc, không có người nào giúp sức, hỗ trợ, ta hay dùng thành ngữ “đơn thương độc mã” (chứ không phải đơn thân độc mã như nói ở trên). Nguyên nghĩa thành ngữ này chỉ về người ra trận một mình, tay cầm một cây thương (vũ khí), cưỡi trên một con ngựa (vật vận chuyển), cái gì cũng một, ngoài ra không còn gì khác. Dường như thành ngữ này có liên quan tới tích Triệu Tử Long một ngựa một giáo xông vào giữa đám vạn quân Tào ở Đương Dương để cứu ấu chúa.