Từ sau giêng Kỷ Hợi tới giờ, xứ ta um xùm mấy chuyện liên quan tới con lợn. Nào là thịt lợn xuống giá, cần phải giải cứu cho người chăn nuôi; nào dịch tả lợn châu Phi hoành hành ở mấy tỉnh miền Bắc, rồi trẻ con huyện gì ở Bắc Ninh cả loạt nhiễm bệnh sán lợn. Còn chuyện lợn được kể ở đây không liên quan tới những thứ ấy.
Nhà tôi ở nông thôn, một vùng quê thuần nông ngoại ô Hải Phòng nên nuôi lợn đã thành nếp quen. Nuôi lợn thì mới có phân bón ruộng (nguồn phân bón chủ lực là phân lợn), có lợn hơi cân nộp cho nhà nước theo định mức, lại tận dụng được các loại rau người chê làm thức ăn cho lợn. Tôi nhận thấy ở quê, mỗi hộ nông dân thường có 3 nếp “nhà”: nhà ở cho người, nhà bếp để đun nấu, và “nhà” cho lợn - chuồng lợn. Dù hộ khá giả hay hộ nghèo, đều theo mô hình ấy. Những nhà nuôi trâu thì có thêm chuồng trâu. Đứa trẻ nào cũng vậy, ngoài thời gian đi học, phụ giúp công việc đồng áng cho cha mẹ, đều thạo “nghề” kiếm rau lợn.
Bây giờ coi người ta nuôi lợn, sao mà nhàn nhã, thảnh thơi thế. Giống lợn cao sản, có con mỗi ngày tăng gần 1 ký, cám bã không phải nấu nướng vất vả, cứ thức ăn công nghiệp đổ đầy máng cho các ngài Trư xơi, làm gì có công thức “rau bèo cám bã nước gạo” như ngày xưa. Nhưng hình như, xưa nuôi vất vả, thức ăn từ nguồn tự nhiên, nên miếng thịt lợn cũng ngon hơn thời nay nhiều. Thực phẩm chính của lợn là cám, rau, nước gạo. Có lẽ người ta chỉ phân phối cấp phát cho nó thứ tiêu chuẩn bèo như vậy bởi ngay cả củ khoai, bát cơm nguội người cũng giành hết, nó chả bao giờ có phần hơn. Người chịu đói quanh năm nên con lợn cũng ít khi được no được ngon.
Không bàn chuyện chính trị. Chỉ quan tâm các vấn đề xã hội. Đá để xây chứ không để ném. nguyenthong8355@gmail.com
Bạn bè
Tổng số lượt xem trang
Tìm kiếm Blog này
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện con lợn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện con lợn. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2019
Chuyện con lợn nhân năm Hợi (kỳ 2)
Như đã biên kể trong bài trước, ở nông thôn miền Bắc những năm thập niên 1960 - 1980, còn gọi là thời bao cấp, con lợn chả khác gì một thành viên quan trọng trong gia đình. Có thể không nuôi chó, nuôi trâu, mèo, gà… nhưng dứt khoát phải nuôi lợn. Đến khi thời bao cấp bị tụt xuống đáy thảm hại, kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng thì không chỉ nông dân nuôi lợn mà ngay cả cán bộ, công chức, dân thành thị cũng rước ông ỉ về nhà. Nói không quá đáng, suốt thời gian dài, con lợn đã cứu con người. Dù vẫn bị gọi là lợn nhưng địa vị của nó được nâng cao rõ rệt. Nó chỉ cần bỏ cám là cả nhà đã cuống lên, lo hơn lo cho người bệnh.
Thời bao cấp, người ta vẫn truyền tai nhau “sự tích” Giáo sư Văn Như Cương (thực ra cụ chỉ Phó giáo sư, người đời cứ gọi thế cho gọn) nuôi lợn. Hồi những năm 1980, thầy Văn Như Cương là ông giáo dạy toán nổi tiếng đất Hà thành và cả miền Bắc, nhưng cũng như hầu hết thầy cô giáo khi đó, đồng lương chết đói không đủ nuôi thân chứ nói gì nuôi gia đình. Thầy Cương ở khu tập thể (chung cư), tuốt trên tầng cao, ngăn hẳn cái nhà tắm vốn đã bé tí làm chuồng lợn. Rau bèo cám bã đã đành phải lôi tuốt lên lầu, ngay cả nước non cũng hiếm, lại phân lợn nữa, khó tránh khỏi mùi hôi. Lợn càng lớn, mùi hôi càng đậm. Ráng chịu chứ biết làm thế nào. Sau vài lứa đầu, tiền lời bán lợn cũng kha khá, cụ “làm ăn lớn” nuôi hẳn vài con cho hoành tráng. Gia đình cụ cắn răng chịu cảnh ô nhiễm nhưng hàng xóm thì không thể chịu. Họ làm đơn thưa với chính quyền. Đoàn kiểm tra liên ngành tới xem thực hư thế nào. Chả nhẽ một giáo sư toán nổi tiếng cũng phải nuôi lợn kiếm sống. Leo hàng chục bậc cầu thang, chưa tới nhà đã ngửi mùi lợn mùi phân nồng nặc. Không sai. Lập biên bản, ghi rõ “giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn…”, đề nghị thầy ký vào. Cụ giáo đọc xong, không chịu, sửa lại “Lợn nuôi giáo sư Văn Như Cương” rồi mới ký tên xác nhận. Thời ấy nhiều người biết chuyện này, một thứ ký ức lịch sử điển hình về những năm tháng bao cấp.
Thời bao cấp, người ta vẫn truyền tai nhau “sự tích” Giáo sư Văn Như Cương (thực ra cụ chỉ Phó giáo sư, người đời cứ gọi thế cho gọn) nuôi lợn. Hồi những năm 1980, thầy Văn Như Cương là ông giáo dạy toán nổi tiếng đất Hà thành và cả miền Bắc, nhưng cũng như hầu hết thầy cô giáo khi đó, đồng lương chết đói không đủ nuôi thân chứ nói gì nuôi gia đình. Thầy Cương ở khu tập thể (chung cư), tuốt trên tầng cao, ngăn hẳn cái nhà tắm vốn đã bé tí làm chuồng lợn. Rau bèo cám bã đã đành phải lôi tuốt lên lầu, ngay cả nước non cũng hiếm, lại phân lợn nữa, khó tránh khỏi mùi hôi. Lợn càng lớn, mùi hôi càng đậm. Ráng chịu chứ biết làm thế nào. Sau vài lứa đầu, tiền lời bán lợn cũng kha khá, cụ “làm ăn lớn” nuôi hẳn vài con cho hoành tráng. Gia đình cụ cắn răng chịu cảnh ô nhiễm nhưng hàng xóm thì không thể chịu. Họ làm đơn thưa với chính quyền. Đoàn kiểm tra liên ngành tới xem thực hư thế nào. Chả nhẽ một giáo sư toán nổi tiếng cũng phải nuôi lợn kiếm sống. Leo hàng chục bậc cầu thang, chưa tới nhà đã ngửi mùi lợn mùi phân nồng nặc. Không sai. Lập biên bản, ghi rõ “giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn…”, đề nghị thầy ký vào. Cụ giáo đọc xong, không chịu, sửa lại “Lợn nuôi giáo sư Văn Như Cương” rồi mới ký tên xác nhận. Thời ấy nhiều người biết chuyện này, một thứ ký ức lịch sử điển hình về những năm tháng bao cấp.
Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2019
Chuyện con lợn nhân năm Hợi
Con lợn ở miền Bắc, dân Nam gọi là con heo. Nó là vật nuôi trong nhóm gia súc gia cầm thân quen gần gũi người nhất, cùng hạng với gà, trâu, mèo, chó. Ở nông thôn miền Bắc thập niên 50 - 70, hầu như nhà nào cũng nuôi lợn. Vì sao nuôi, cứ thủng thẳng tôi sẽ kể.
Năm nay 2019, nếu tính theo lịch âm, là năm con lợn. Người Tàu cổ xưa đặt ra lịch tính ngày tháng năm căn cứ vào tuần trăng, gồm 10 can và 12 chi, mỗi chi ứng với một tháng trong năm, được gọi tên theo con vật. Trong hàng chi, con lợn (heo) xếp cuối cùng, gọi là Hợi. Đám chúng tôi hồi nhỏ, ngoài việc thuộc bảng cửu chương, thì hầu như đứa nào cũng biết tính năm kiểu âm lịch, thuộc làu 10 can “giáp ất bính đinh mậu kỷ canh tân nhâm quý” và 12 chi “tý sửu dần mão thìn tỵ ngọ mùi thân dậu tuất hợi”. Cứ hết một hồi tròn 60 năm thì trở lại tên năm cũ, ví dụ năm âm lịch sắp tới là Kỷ Hợi-2019 thì sau 60 năm nữa mới lại có Kỷ Hợi-2079 . Các cụ gọi là lục thập hoa giáp (tròn một vòng 60 năm), xem đó như một đời người. Phần thời gian được sống tiếp sau hoa giáp này coi như phần lãi, trời cho.
Thời trước, các cụ sinh đẻ con vào năm nào thì thường đặt tên con bằng tên năm ấy. Cả 12 chi đều thành tên, dễ nghe dễ gọi, lại dễ nhớ tuổi. Trong truyện “Tắt đèn” của cụ đầu xứ Tố (Ngô Tất Tố), nhân vật chính là anh Dậu (sinh năm con gà), em trai là anh Hợi (sinh năm con lợn), các con là Tý (chuột), Dần (hổ), chỉ có cái Tỉu chưa được đặt tên chữ. Nhưng đó là những năm ở vài thập niên đầu thế kỷ 20, chứ càng về sau thì người ta không thích đặt như vậy nữa. Cứ hình dung cả làng có vài chục anh Sửu, mười mấy chị Tỵ dễ bị lẫn lộn lung tung lắm. Làng tôi bớt những chị Mão, chị Ngọ, chị Mùi thì lại thêm nhiều tên nôm na dân dã của các cô các chị như Lộn, Són, Vén, Gầu, Nhỡ, Vớ, Khỏe, Khoắn, Khợi, Hểu, Ga… Chả như ngoài thành phố, tinh tên nghe réo rắt dễ thương, kiểu “Nào xem thử đoán tên con gái/Oanh, Yến, Đào, Trâm, Bích, Ngọc, Hồi” (thơ Nguyễn Bính). Cô em gái tôi, sinh năm con lợn nhưng thày bu tôi chắc cũng bị ảnh hưởng lối Âu hóa nên không đặt là Hợi mà là Ngọt. Tôi nghiệm từ thực tế, thấy hầu hết những phụ nữ sinh năm Hợi đều rất dịu dàng, hiền thục, giỏi giang, đảm đang, được mọi người quý mến. Em tôi là một cô Hợi như vậy.
Năm nay 2019, nếu tính theo lịch âm, là năm con lợn. Người Tàu cổ xưa đặt ra lịch tính ngày tháng năm căn cứ vào tuần trăng, gồm 10 can và 12 chi, mỗi chi ứng với một tháng trong năm, được gọi tên theo con vật. Trong hàng chi, con lợn (heo) xếp cuối cùng, gọi là Hợi. Đám chúng tôi hồi nhỏ, ngoài việc thuộc bảng cửu chương, thì hầu như đứa nào cũng biết tính năm kiểu âm lịch, thuộc làu 10 can “giáp ất bính đinh mậu kỷ canh tân nhâm quý” và 12 chi “tý sửu dần mão thìn tỵ ngọ mùi thân dậu tuất hợi”. Cứ hết một hồi tròn 60 năm thì trở lại tên năm cũ, ví dụ năm âm lịch sắp tới là Kỷ Hợi-2019 thì sau 60 năm nữa mới lại có Kỷ Hợi-2079 . Các cụ gọi là lục thập hoa giáp (tròn một vòng 60 năm), xem đó như một đời người. Phần thời gian được sống tiếp sau hoa giáp này coi như phần lãi, trời cho.
Thời trước, các cụ sinh đẻ con vào năm nào thì thường đặt tên con bằng tên năm ấy. Cả 12 chi đều thành tên, dễ nghe dễ gọi, lại dễ nhớ tuổi. Trong truyện “Tắt đèn” của cụ đầu xứ Tố (Ngô Tất Tố), nhân vật chính là anh Dậu (sinh năm con gà), em trai là anh Hợi (sinh năm con lợn), các con là Tý (chuột), Dần (hổ), chỉ có cái Tỉu chưa được đặt tên chữ. Nhưng đó là những năm ở vài thập niên đầu thế kỷ 20, chứ càng về sau thì người ta không thích đặt như vậy nữa. Cứ hình dung cả làng có vài chục anh Sửu, mười mấy chị Tỵ dễ bị lẫn lộn lung tung lắm. Làng tôi bớt những chị Mão, chị Ngọ, chị Mùi thì lại thêm nhiều tên nôm na dân dã của các cô các chị như Lộn, Són, Vén, Gầu, Nhỡ, Vớ, Khỏe, Khoắn, Khợi, Hểu, Ga… Chả như ngoài thành phố, tinh tên nghe réo rắt dễ thương, kiểu “Nào xem thử đoán tên con gái/Oanh, Yến, Đào, Trâm, Bích, Ngọc, Hồi” (thơ Nguyễn Bính). Cô em gái tôi, sinh năm con lợn nhưng thày bu tôi chắc cũng bị ảnh hưởng lối Âu hóa nên không đặt là Hợi mà là Ngọt. Tôi nghiệm từ thực tế, thấy hầu hết những phụ nữ sinh năm Hợi đều rất dịu dàng, hiền thục, giỏi giang, đảm đang, được mọi người quý mến. Em tôi là một cô Hợi như vậy.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)