Hầu hết nhà tường đất nện mái rạ nên
thấp lè tè, cao nhất chỉ là đám tre pheo, bạch đàn, vì vậy không gian thật thoáng
đãng. Những hôm trời quang, bầu trời trong xanh, từ gốc nhãn đình nhìn về phía
bắc thấy rõ mồn một dãy Yên Tử xanh sẫm cao vút trập trùng. Yên Tử mãi tận Đông
Triều, Quảng Ninh nhưng theo đường chim bay có cảm giác thật gần, một phần có lẽ
bởi Yên Tử hùng vĩ quá. Cao nhất trên dãy hoành sơn đồ sộ ấy là hai mỏm núi liền
kề trông như cái yên ngựa. Thày (bố) tôi bảo núi đó thiêng lắm, không như núi
Chè, núi Đối bé tí quê mình đâu, ở đó ngày xưa đức vua Trần, ngài Trần Nhân
Tông tu tập tạo nên thiền phái Trúc Lâm trong đạo Phật nước mình. Chả bao giờ tôi
và cả thày tôi nữa nghĩ rằng có ngày nào đó được đến thăm Yên Tử, viếng chùa mà
nhà vua đã xây dựng và tu. Nông dân bám mặt vào việc đồng áng quanh năm, thậm
chí ngày tết vẫn phải tranh thủ dỡ khoai tây, tát nước lúa, đâu dám ước ao đi
thăm thú, du lịch nơi này nơi nọ.
Năm 1969, máy bay Mỹ tạm ngưng ném
bom miền Bắc nhưng chiến tranh ở miền Nam ngày càng ác liệt. Cứ vài ba tuần
làng tôi lại nhận tin người này người nọ hy sinh. Mỗi lần có giấy báo tử trên
huyện đội chỗ ông Hâm người làng làm ở đó đưa về, cả làng lại càng buồn thảm.
Đám thanh niên nhớn không kịp, vừa đủ tuổi là đi, làng hầu như chỉ còn người
già, phụ nữ, trẻ con. Anh Uy tôi năm ấy học lớp 10, học giỏi nổi tiếng trường cấp
3 Kiến Thụy. Vừa tốt nghiệp, anh tôi có giấy báo vào học trường Tuyên giáo
trung ương trên Hà Nội, chưa kịp nhập học thì đúng đợt tuyển quân. Nhà hai con
trai chưa ai vào lính thì phải đi thôi, không oong đơ gì cả. Cùng đi với anh
tôi lần ấy là anh Trí anh họ tôi, con bác Đắc; là Kiên con bà Khểnh trong làng,
học cùng cấp 2 với tôi; là anh Nam bên làng Phương Đôi, anh của Nguyễn Văn Lư bạn
cùng lớp tôi. Cả đám tân binh kéo nhau sang Thạch Lựu bên huyện An Lão cũ tập
trung, được khoảng gần tháng thì lên Yên Tử.
Được 3 tháng, anh Uy gửi thư về, bảo
sắp lên đường vào Nam chiến đấu, lệnh đi gấp nên không thể về nhà. Vậy là cả
nhà nháo nhào, thu xếp kéo nhau lên Yên Tử. Đoàn gồm thày tôi, anh Trác, anh
Huy, anh Tế, anh Thắng (là các anh họ, con bác) và tôi. Bên nhà anh Trí có bác
Đắc, anh Thức (sau này đổi tên là Hồng), nhà anh Kiên có mẹ con bà Khểnh, nhà
anh Nam có bố con bạn Lư. Tất cả “hành quân” lên Yên Tử bằng xe đạp bởi khi ấy
chỉ có ô tô khách từ huyện lỵ Kiến Thụy ra Phòng mỗi ngày 2 chuyến, 20 cây số
nhưng có khi phải mất một ngày mới tới nơi.
Buổi chiều, tôi chạy ù ra gốc nhãn
đình nhìn về Yên Tử xa xanh trập trùng. Cái mỏm yên ngựa rõ mồn một. Mọi lần thấy
gần nhưng sao lần này xa thế. Hồi nãy thày tôi nói với anh Huy phải hơn năm chục
cây số, qua Thủy Nguyên, Đá Bạch, Tràng Kênh mới tới Đông Triều, thày nhắc các
anh đi thật sớm từ 3 giờ sáng, vừa cho mát, vừa để chiều còn kịp về.
Tôi khi ấy mới 14 tuổi nên được tiêu
chuẩn ngồi ba ga, anh Huy đèo. Anh Trác đèo thày tôi, còn anh Tế anh Thắng
chung một xe, ai mỏi thì thay phiên nhau cầm lái. Chuyến đi thật vất vả, giờ
nghĩ lại thương thày tôi vô cùng. Chỉ gặp động viên con được nửa tiếng đồng hồ
rồi phải vội về, vả lại chỉ huy bộ đội cũng không cho trò chuyện lâu bởi còn tất
bật chuẩn bị cho ngày mai hành quân vào Nam. Chiều muộn Yên Tử mờ sương, nhạt
nhòa, mấy bố con, anh em bịn rịn không nỡ rời, nhòe nước mắt, rồi lủi thủi ra về, quay lại thấy
anh Uy tôi như bức tượng đá cứ đứng nhìn theo mãi. Gần 11 giờ đêm mới về đến
nhà, rã rời. Tôi ngồi sau xe đạp, mấy lần ngủ gật suýt nhào xuống đường, anh
Huy bảo nhổ tí nước bọt bôi lên mắt cho tỉnh ngủ. Những buổi chiều sau, lại ra
gốc nhãn đình trông về Yên Tử dù biết anh mình không còn ở đó. Mắt cứ nhòe đi.
Năm 1975, anh Uy tôi về trại thương
binh Vĩnh Bảo với mấy vết thương, lúc thì bị ở Hạ Lào, khi thì Trung Trung Bộ.
Nhận sổ thương binh rồi đi học lại. Còn may mắn chán, chứ Kiên bạn tôi và anh
Nam anh của Lư đã hy sinh, chả biết có tìm được hài cốt không. Làng tôi đã buồn
lại càng buồn, suốt bao năm không nguôi quên được những mất mát bởi chiến
tranh.
Chiều 28.4, 40 năm sau chiến tranh
Nguyễn Thông
Hy sinh cho mộng ước tột cùng của Bác Hồ vĩ đại là "đánh Mỹ cho Trung Quốc" để giải phóng miền Nam là một vinh dự . Đáng lẽ các bác phải tự hào vì đã chiến đấu và hy sinh để cả nước bây giờ cũng chịu (đựng) sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản mà Bác Hồ vĩ đại đã thành lập .
Trả lờiXóaRồi sau này, khi 2 đảng sáp nhập, các bác đảng viên có phải tự nhiên trở thành lưỡng (như 2 mà 1) quốc đảng viên không ?
Tự hào quá đi chứ!