Hồi bắt đầu hội nghị Paris về Việt Nam năm 1968 tôi đang học
lớp 7, lớp cuối cấp của hệ phổ thông 10 năm. Tuổi ấy chưa hẳn khôn ngoan hiểu
biết gì nhiều nhưng cũng đã rạo rực khi ngồi bên cô bạn gái cùng lớp cơ thể
đang mỗi ngày mỗi khác, biết lắng nghe thông tin từ nhiều phía về cuộc chiến
tranh. Nghe người nhớn nói với nhau bọn Mỹ ngụy bị ta đánh cho tơi tả, chịu
không nổi phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán thì hơi ngờ ngợ nhưng thú thực
là khoái lắm. Thậm chí sướng vô cùng. Sắp kết thúc chiến tranh rồi.
Hai phía bốn bên cùng bàn bạc cách kết thúc sự thù địch,
“súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”, ai mà chẳng thích. Tôi hình dung ra ngay sắp
tới các anh trai cày làng tôi sẽ không phải vào bộ đội, không phải ra trận nữa,
nghĩa trang liệt sĩ không cần mở rộng theo kế hoạch nữa, huyện đội và ủy ban xã
không phải vất vả khó xử khi trao giấy báo tử cho gia đình ai đó nữa. Rồi trận
địa tên lửa ở Mả Đò lại đêm đêm chiếu phim miễn phí cho dân làng tới xem. Hết cảnh
đám máy bay Mỹ từ hạm đội 7 hằng ngày theo cửa sông Văn Úc bay vào cứ nghễu nghện
lừng lững qua bầu trời làng, như vào chỗ không người. Chiến tranh sẽ chấm dứt.
Bắt đầu từ hội nghị Paris.
Ấy, lòng trẻ thơ sớm bị già dặn bởi chiến tranh cứ ngổn
ngang trăm mối, hồi hộp, mừng vui, chờ đợi như vậy. Nghe thơ Tố Hữu, “sức ta là
sức thanh niên/thế ta là thế đứng trên đầu thù” thấy hởi lòng hởi dạ. Những
thông tin ít ỏi về tiến trình hội nghị Ba Lê (mấy cán bộ huyện, xã khi tuyên
truyền trong đám dân chúng thường gọi như vậy) qua báo Nhân Dân, đài tiếng nói
Việt Nam và cán bộ (chỉ có 3 kênh ấy thôi) khiến ai cũng tự hào. Bọn đế quốc và
tay sai đúng là loài dơi hốt hoảng bay trong đêm tàn, còn bên ta oai vệ, hiên
ngang, ngẩn cao đầu. Có cảm giác phái đoàn của ông Xuân Thủy, của bà Nguyễn Thị
Bình đã đè bẹp bọn Harriman, Trần Văn Lắm từng giờ từng phút, không cho chúng ngóc
đầu dậy. Hòa bình ơi, mi đang ở trong tầm tay, do công lao của những người cộng
sản miền Bắc.
Nhưng mộng mà thôi, mộng đấy thôi. Nhà thơ Nguyễn Bính hồi
xưa đã viết như thế. Chỉ một thời gian ngắn sau hội nghị, chúng tôi, bọn trẻ đã
chán ngấy chiến tranh, đang khao hát hòa bình đã vỡ mộng. Hòa bình đâu chửa thấy,
chỉ thấy tháng 9.1969 ông anh ruột tôi vừa tốt nghiệp lớp 10, đã có giấy báo
vào nhập học trường tuyên giáo trung ương nhưng phải xếp lại tất để vào bộ đội.
Chiến trường đang thiếu lính, cho công cuộc vừa đánh vừa đàm.
Phần trên, tôi biên chép lại những chuyện cũ liên quan tới
hội nghị Paris năm 1968 nhân những ồn ào xung
quanh cuộc gặp thượng đỉnh hai miền Triều Tiên (Hàn - Triều) vừa diễn ra. Tình
hình bán đảo Triều Tiên xoay chuyển quá nhanh, và có vẻ rất tích cực, bởi mới
chỉ vài tháng trước thôi còn đối đầu như hai con hổ dữ nhe nanh múa vuốt, quyết
một phen sống mái, một mất một còn, thì nhoằng cái đã bắt tay nhau, chuyện trò
thân mật, bỏ qua cho nhau những lợn cợn, cùng nhìn về tương lai.
Trông xa lại nghĩ gần. Gần là chuyện xứ mình, dù đã xa ngái
nửa thế kỷ. Năm 1970, thày trò Trường cấp 3 Kiến Thụy (Hải Phòng) chúng tôi “có
vinh dự” được trung ương chọn một thầy dạy tiếng Anh đi phiên dịch cho hội nghị
Paris. Có lẽ người giỏi tiếng Anh ở miền Bắc khi đó hơi bị hiếm, chứ nếu cần người
dịch tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Pháp thì cả rổ, tha hồ tuyển chọn. Hồi cấp
3, tôi bị học tiếng Trung do thầy Nguyễn Văn Dừa và cô Vương Ngọc Bảo dạy. Thày
Dừa đậm người trông như con gấu, cô Bảo người gốc Hoa, tóc phi dê, đẹp như hoa
hậu (năm sau có cô Dung dạy lý chuyển về, tóc dài chấm gót, đẹp hơn, thế là vương
miện thuộc về cô Dung). Thầy Phùng Quán dạy toán nổi tiếng đẹp trai rất mê cô Bảo
nhưng cô Bảo lại mê thầy Dừa, còn cô Tâm dạy sinh lại yêu thầy Quán. Đến khi
tôi tốt nghiệp cấp 3 năm 1972 thì những quan hệ lằng nhằng ấy vẫn chưa đâu vào
đâu, sau này nghe nói không cặp nào kết quả. Gần nửa thế kỷ rồi, cứ tiếc sao
các thầy cô mình lại không thành chồng thành vợ bởi ai cũng đẹp cũng tốt cũng
thật đáng yêu.
Thầy dạy tiếng Anh đi phiên dịch hội nghị Paris là thầy
Thành. Tôi không được học thầy, chỉ ước chừng khi ấy thầy cũng phải ngoài 50, từng dạy học từ thời Pháp cai trị.
Đi hơn 1 năm thì về dạy lại. Có lần thầy Duyên dạy môn chính trị bàn với thầy Nguyễn
Mạnh Thường hiệu trưởng tổ chức một buổi cho thầy Thành nói chuyện về thành
công của hội nghị Ba Lê, kể những điều mắt thấy tai nghe. Thầy Thành thuật lại những
khó khăn khi ta phải đấu trí với những người Mỹ sừng sỏ lão luyện về đàm phán, chuyện
đoàn VN được nhân dân Pháp ủng hộ ra sao, được Việt kiều đùm bọc, được Liên Xô
dúi cho tiền bạc chi xài… Lần nào trưởng đoàn VN đi Paris thì đều phải qua Maxcơva,
một phần do không có đường bay thẳng tới đó, một phần phải ghé xin ý kiến anh cả
xem chỉ đạo sắp tới như thế nào. Nói chung, như lời thầy Thành, đó là một mặt
trận cực kỳ căng thẳng, giành giật nhau từng phút, bắt bẻ nhau từng câu nói, sẽ
kéo dài không biết đến bao giờ mới chấm dứt.
Tất nhiên bọn học sinh lớp 9 chúng tôi cũng đủ hiểu rằng thầy
Thành chỉ nói những điều được nói, còn những gì khác đang diễn ra trên bàn hội
nghị, bên ngoài hội nghị nó phức tạp thế nào, phải đợi sau này lịch sử hạ hồi
phân giải. Nhưng có những thứ chúng tôi nghe được, tất nhiên thông tin một chiều
từ bộ máy tuyên truyền, tinh chuyện ghê gớm, dạng “ta thắng địch thua”, ta ở thế
thượng phong cao vòi vọi, đứng trên đầu thù.
Hồi đó người ta hay kể cho nhau nghe chuyện cái bàn hội nghị.
Theo cán bộ tuyên huấn, bọn Mỹ ngụy chúng thâm hiểm lắm, chúng định bắt hội nghị
ngồi bàn hình chữ nhật, nhưng ta kiên quyết không chịu, sau chúng xuống nước
đòi bàn vuông. Ta cứ lập trường cách mạng vững vàng, không là không, cuối cùng
chúng phải chấp nhận ngồi bàn tròn. Bàn tròn thì mới tôn lên được vai trò vị
trí ngang ngửa của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bên
ta coi đó là thắng lợi vẻ vang. Sau này tôi cứ thắc mắc nếu ngồi bàn vuông thì
ta sút kém chỗ nào, không thể hiểu nổi, tuy nhiên lúc ấy nghe cán bộ ca ngợi thì
cũng khoái lắm.
Họp bàn đàm phán với nhau nhưng phía cộng sản cứ lúc nào
cũng phải thế thượng phong mới tỏ được chính nghĩa cách mạng. Báo chí những năm
đó thỉnh thoảng lại ca ngợi bản lĩnh khí phách của ông Lê Đức Thọ, lúc thì ông
không thèm bắt tay Kissinger, khi thì đập bàn mắng mỏ đoàn Mỹ hoặc đoàn Việt
Nam cộng hòa như cha mắng con, lúc thì tự dưng đứng lên bỏ hội nghị ra về không
thèm nói với “chúng” một câu nào. Nghe sướng lắm. Khi ấy, ông Sáu Búa Lê Đức Thọ
như thần tượng của cả miền bắc, một thứ Idol Bắc Việt, át cả những ông Xuân Thủy,
ông Nguyễn Duy Trinh, bà Nguyễn Thị Bình. Báo Nhân Dân phong ông Thọ là dũng sĩ
diệt Mỹ trên trận chiến ngoại giao. Báo viết rằng hội nghị Paris còn vất vả
gian khổ hơn ngoài chiến trường nhiều. Tuy nhiên, ông anh họ tôi một hôm đọc
báo xong, thở dài, bảo đi đàm phán hòa bình mà cứ khôn vặt, xưng xưng nhận phần hơn phần
hay phần tốt phần lợi về mình thế này thì có mục thất cũng chả đi đến đâu. Hai
ông điếc nói cho nhau nghe thì sao thủng lỗ tai.
Sau khi hội nghị Paris kết thúc, Ủy ban Giải Nobel Na Uy quyết
định trao cho cặp đôi Kissinger – Lê Đức Thọ giải Hòa bình 1972, nhưng ông Sáu
Búa không nhận, bởi không thèm nhận chung giải với kẻ mà mình căm ghét. Dư luận
lại một phen sướng đã đời. Vẫn thế thượng phong. Kết thúc cuộc hòa đàm, phía ta
lập trường vẫn vững như bàn thạch, chỉ có điều để rồi mấy chục năm sau bỏ qua biết
bao nhiêu cơ hội bắt tay nhau chung sống hòa bình.
Các nhà viết sử ngoại giao xứ này thường nói về Hội nghị
Paris như một thắng lợi chói lọi, mốc son ngoại giao, nước nhỏ nhưng đứng trên
đầu thù, khiến kẻ thù ê chề, thất bại thảm hại… Tôi chỉ nghĩ rằng, giá như không
cần phải thế, cứ như hai miền Triều Tiên bây giờ thì tốt biết bao nhiêu.
Nguyễn Thông
Tuyên giáo =>tuyên truyền giáo gươm
Trả lờiXóaBây giờ đài báo vẫn tuyên truyền như vậy các bác ạ.
Trả lờiXóaKhông biết là chuyện Nam, Bắc Hàn kết thúc thế nào nhưng nếu họ thống nhất được mà không cần đến một cái nghĩa trang liệt sĩ “khủng” ở Bàn Môn Điếm thì tháng 4 của họ quả rất khác với tháng 4 của mình
Trả lờiXóaNghe nói có giai thoại là :" Tôi dài hơn ông" nữa mà. Tui nghe cũng thích vì : Đối đáp nhanh và vĩ đại quá,
Trả lờiXóaThu goi
Trả lờiXóa