Quả thật sự gợi ý về thực phẩm làm sống lại bao nhiêu ký ức thời chưa xa, cần phải biên ra kẻo sau này đầu óc loãng đi có muốn ghi chép cũng chả được. Và xin nói rõ ngay từ đầu, tất cả mọi điều đã kể hoặc sẽ kể đều là thực, mắt thấy tai nghe, bản thân từng trải, chủ yếu ở miền Bắc hồi thập niên 1960 - 1970, sau chút nữa là thời hậu chiến 1975 cả hai miền.
Những năm xa ấy, lương thực đã thiếu, cơm chỉ 2 lưng bát mỗi bữa, lại độn đủ thứ ngô khoai sắn bột mì thì làm gì có chuyện thực phẩm sẵn, dồi dào. Hồi tôi còn bé, thậm chí khi đã nhớn đi học cấp 2, biết nhiều nhà làng mình chỉ có cơm mà không mấy khi đủ thức ăn. Loanh quanh cũng mấy thức vườn nhà, rau là chính, chứ thịt thà tôm cá không mấy khi xuất hiện trên mâm. Con gà nuôi để nhặt hạt rơi hạt vãi, bắt con sâu con bọ ngoài vườn, khi chúng to nhơ nhỡ trở lên là thày bu đã xách ra chợ bán lấy tiền đong gạo, đố nhà nào dám cắt tiết. Giết lợn chui có khi bị đi tù. Giò chả nem mọc chỉ có trong câu chuyện khề khà hoặc dịp tết. Thức ăn trong bữa cơm của dân quê thật nghèo nàn và đơn giản.
Bây giờ ta quen gọi chung những thứ kèm cơm là thực phẩm, chứ cách nói dân dã là thức ăn. Ở huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) quê tôi, trên thị trấn cạnh cửa hàng bách hóa bán vải vóc, đồ dùng sinh hoạt, cái kim sợi chỉ… là cửa hàng thực phẩm với thịt cá, gà qué, nước mắm, xì dầu, đậu phụ, lòng lợn, rau cỏ. Chỉ những người có tem phiếu, có sổ mua hàng mới dám bén mảng hai cửa hàng này. Còn chỗ của phó thường dân là chợ Thọ Xuân gần đó, hay còn gọi là chợ huyện, chợ Tác Giang (Tác Giang là một tên gọi khác của sông Đa Độ chảy qua huyện), cũng đủ loại, chỉ có điều giá cao gấp mấy lần trong cửa hàng thương nghiệp. Vì vậy, thời ấy người ta tìm mọi cách để thoát ly, tức là làm cán bộ công nhân viên nhà nước, có sổ có phiếu mua hàng. Cái sổ ấy không chỉ để chứng tỏ đẳng cấp trong xã hội mà còn tiết kiệm được ối tiền, nhất là lương ba cọc ba đồng. Giữ sổ kỹ chẳng khác gì của gia bảo. Lỡ để mất nó với cái sổ gạo thì chỉ còn cách treo mõm, ông anh họ tôi dạy học nửa đùa nửa thật bảo vậy.
Nhớ có lần tôi về phép, năm ấy khoảng 1981-1982 gì đó, đứa cháu họ tôi là thương binh, dạy học ở Trường cấp 2 Thanh Sơn, một tay (y bị cụt tay) phóng xe đạp xuống mời chú lên nhà xơi cơm. Y bảo hôm nay cửa hàng thực phẩm có bán lòng lợn, để cháu mua đãi chú. Lại một tay phóng xe đạp lên huyện. Về nhà rồi y kể, vội vã đi, thế mà lên tới nơi đã thấy người xếp hàng dài dặc. Thương binh được ưu tiên, có lối xếp hàng riêng. Khi tới lượt mua mới nhớ quên sổ ở nhà. Cô mậu dịch viên nhất quyết không bán, không có sổ thì làm sao bán. Y năn nỉ mãi, cô không lay chuyển, kêu anh đứng ra cho người khác mua. Nghĩ tới ông chú mặt mũi vêu vao đang háo hức chờ món lòng lợn ở nhà, y bảo cô ạ, tôi quên đem sổ nhưng sổ của tôi đây, rồi giơ cánh tay cụt lên huơ huơ. Cô hàng tần ngần, rồi “em thông cảm cho anh lần này thôi”, bán cho nửa ký lòng lợn theo sổ-cánh tay cụt. Nghe kể, vợ y cười tủm tỉm, hú vía, chứ không hôm nay vợ chồng cháu chỉ biết đãi chú bằng rau luộc. Bữa lòng lợn kỳ công ấy khiến tôi nhớ mãi.
Đồ ăn thức uống ở nhà quê được gọi là thức quê. Nhiều khi nói thức ăn thì đám trẻ bây giờ hiểu ngay, nhưng nói thức quê chúng lại ngớ ra. Tôi tra từ “thức” trong từ điển, nghĩa động từ của nó là “không ngủ, làm cho tỉnh dậy”, chả hạn người ta khuyên nhau “thức lâu mới biết đêm dài”, còn chức năng danh từ chỉ có một nghĩa “thứ để ăn, đồ ăn uống”, nông thôn mùa nào thức ấy, quả dưa vào mùa hè, quả táo mùa xuân, củ su hào củ khoai tây và bọn rau xanh nhiều nhất vào dịp trước và sau tết âm lịch… Đó là thức quê.
Nhân nhắc tới rau, sực nhớ rau là món chính trên mâm cơm nông dân và dân nghèo thành thị suốt mấy chục năm. Chỉ khi nhà có khách, trông bữa cơm mới giàu chất đạm, có đĩa trứng rán, đĩa cá kho, tôm rang, bát canh khoai tây nấu sườn, chứ bình thường nhìn mâm thức ăn cứ xanh ngăn ngắt. Rau luộc, rau nấu canh, rau xào (chả mấy khi xào bởi không có mỡ), rau sống, hôm kiểu này, mai kiểu khác, tinh rau là rau. Được cái nhà quê sẵn rau, đủ loại cải thìa, muống, dền, ngót, mùng tơi, mướp, su hào, bắp cải, súp lơ, khoai tây, cà chua, đậu cô ve; trồng trong vườn, ngoài ruộng, bờ rào, ven kênh, cứ tới bữa ăn cầm cái rổ nhảo ra một lúc là đủ nấu. Phải công nhận rau hồi đó chỉ nhõn loại rau sạch, không có kiểu phân biệt rau bán rau ăn như bây giờ. Tôi lúc bé rất sợ tuốt rau ngót bởi thứ rau này nhiều sâu, những con sâu đo màu xanh nõn chuối bé bằng ruột bút chì, dài bằng nửa cái tăm cong người trốn khi đụng phải nó. Nhiều bữa rửa rất kỹ nhưng múc bát canh vẫn thấy chình ình con sâu bị luộc chín giữa tô, thày tôi cười bảo không sao, ăn được tất. Rau có sâu là rau không bị phun thuốc trừ sâu (hồi ấy phổ biến 3 loại DTT, 666 và Vofatoc rất độc), không nhiễm độc, ăn càng lành, đừng đổ đi, phí. Chẳng hiểu sao từ thời bấy giờ thày tôi đã nhìn ra cái mối lo ngại của người tiêu dùng mấy chục năm sau.
Nói gì thì nói, đám trẻ con vẫn thích thịt cá gà qué hơn rau. Cứ có dịp ngồi với nhau, tinh kể lể thèm thịt thèm giò thèm cá rán, chả đứa nào nhận tao thèm rau. Nhớ hồi học cấp 1, trong sách tập đọc lớp 2 có bài về cu Tí. Hình như suốt mấy lớp, từ lớp vỡ lòng tới lớp 1, lớp 2, lớp 3, cu Tí đều là nhân vật chính. Tí của lớp 2 thèm thịt, bài học thuật lại rằng “Hôm nào thấy mâm cơm không có thịt là cu Tí buồn thiu. Một hôm Tí nói với mẹ: mẹ ơi, ăn rau chán chết, sao mẹ không mua thịt luôn mà ăn. Mẹ Tí cười bảo, thịt đắt tiền, lại khó mua…”, đại loại mẹ Tí nâng cao nhận thức cho Tí, rằng rau vừa rẻ vừa bổ, con ạ, ăn rau rất tốt. Đám trẻ con đi học chúng tôi nghe dạy vậy thì biết vậy nhưng vẫn cứ thèm thịt.
Nguyễn Thông
Đồ ăn thức uống ở nhà quê được gọi là thức quê. Nhiều khi nói thức ăn thì đám trẻ bây giờ hiểu ngay, nhưng nói thức quê chúng lại ngớ ra. Tôi tra từ “thức” trong từ điển, nghĩa động từ của nó là “không ngủ, làm cho tỉnh dậy”, chả hạn người ta khuyên nhau “thức lâu mới biết đêm dài”, còn chức năng danh từ chỉ có một nghĩa “thứ để ăn, đồ ăn uống”, nông thôn mùa nào thức ấy, quả dưa vào mùa hè, quả táo mùa xuân, củ su hào củ khoai tây và bọn rau xanh nhiều nhất vào dịp trước và sau tết âm lịch… Đó là thức quê.
Nhân nhắc tới rau, sực nhớ rau là món chính trên mâm cơm nông dân và dân nghèo thành thị suốt mấy chục năm. Chỉ khi nhà có khách, trông bữa cơm mới giàu chất đạm, có đĩa trứng rán, đĩa cá kho, tôm rang, bát canh khoai tây nấu sườn, chứ bình thường nhìn mâm thức ăn cứ xanh ngăn ngắt. Rau luộc, rau nấu canh, rau xào (chả mấy khi xào bởi không có mỡ), rau sống, hôm kiểu này, mai kiểu khác, tinh rau là rau. Được cái nhà quê sẵn rau, đủ loại cải thìa, muống, dền, ngót, mùng tơi, mướp, su hào, bắp cải, súp lơ, khoai tây, cà chua, đậu cô ve; trồng trong vườn, ngoài ruộng, bờ rào, ven kênh, cứ tới bữa ăn cầm cái rổ nhảo ra một lúc là đủ nấu. Phải công nhận rau hồi đó chỉ nhõn loại rau sạch, không có kiểu phân biệt rau bán rau ăn như bây giờ. Tôi lúc bé rất sợ tuốt rau ngót bởi thứ rau này nhiều sâu, những con sâu đo màu xanh nõn chuối bé bằng ruột bút chì, dài bằng nửa cái tăm cong người trốn khi đụng phải nó. Nhiều bữa rửa rất kỹ nhưng múc bát canh vẫn thấy chình ình con sâu bị luộc chín giữa tô, thày tôi cười bảo không sao, ăn được tất. Rau có sâu là rau không bị phun thuốc trừ sâu (hồi ấy phổ biến 3 loại DTT, 666 và Vofatoc rất độc), không nhiễm độc, ăn càng lành, đừng đổ đi, phí. Chẳng hiểu sao từ thời bấy giờ thày tôi đã nhìn ra cái mối lo ngại của người tiêu dùng mấy chục năm sau.
Nói gì thì nói, đám trẻ con vẫn thích thịt cá gà qué hơn rau. Cứ có dịp ngồi với nhau, tinh kể lể thèm thịt thèm giò thèm cá rán, chả đứa nào nhận tao thèm rau. Nhớ hồi học cấp 1, trong sách tập đọc lớp 2 có bài về cu Tí. Hình như suốt mấy lớp, từ lớp vỡ lòng tới lớp 1, lớp 2, lớp 3, cu Tí đều là nhân vật chính. Tí của lớp 2 thèm thịt, bài học thuật lại rằng “Hôm nào thấy mâm cơm không có thịt là cu Tí buồn thiu. Một hôm Tí nói với mẹ: mẹ ơi, ăn rau chán chết, sao mẹ không mua thịt luôn mà ăn. Mẹ Tí cười bảo, thịt đắt tiền, lại khó mua…”, đại loại mẹ Tí nâng cao nhận thức cho Tí, rằng rau vừa rẻ vừa bổ, con ạ, ăn rau rất tốt. Đám trẻ con đi học chúng tôi nghe dạy vậy thì biết vậy nhưng vẫn cứ thèm thịt.
Nguyễn Thông
Quốc gia từ lãnh tụ xuống đến người dân, kể cả các em bé chỉ học, đọc, viết, nói , nhìn và nghe một chiều ... nên thế kỷ 21, (trích) Lại có bạn tỏ ý hồ nghi, thắc mắc những chuyện ấy xảy ra hồi nào, ở đâu, sao nghe giống chuyện cổ tích quá…” (ngưng trích).
Trả lờiXóaĐịnh viết comment góp thêm sự thật, nhưng khá khuya . Dân Nam gởi lại đây bài viết của T/g Hoàng Thanh Trúc so sánh đời sống của đồng bào Miền Bắc trước 30/4/1975 với Miền Nam thời VNCH. Nếu các bạn trẻ và những người bạn của Trang chủ Nguyễn Thông vẫn còn hồ nghi hay thắc mắc càng nên đọc trọn bài và hơn 500 comments để mở mang kiến thức.
2/9 - Lối xưa xe ngựa “Sài Gòn cũ” – T/g Hoàng Thanh Trúc
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/09/29-loi-xua-xe-ngua-sai-gon-cu.html
Thân mến
Dân Nam
CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA, NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG vs CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Trả lờiXóaPhần 1 : Miền Nam trước năm 1975 người nông dân được ấm no hạnh phúc, nhờ vào chánh phủ cấp ruộng đất cho nông dân nghèo. Thời Tổng thống Ngô đình Diệm có chánh sách Cải cách Điền Địa, lấy đất công điền cấp miễn phí hoặc bán lại giá thật rẻ cho nông dân nghèo. Mở ngân hàng Nông Tín Cuộc cho vay không lãi, giúp nông dân và công nhân cơ hội tiến lên. Ông Diệm lập Khu Trù Mật, Khu Dinh Điền đưa dân đến định cư. Đẩy mạnh kế hoạch dẫn thuỷ nhập điền, giúp đời sống nông dân tiến lên nhanh và khá hơn. Đối với hàng triệu bà con Miền Bắc vào Nam năm 1954, chánh phủ giúp lo định cư rất thành công, con cái được học hành đỗ đạt nên danh.
Thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, đổi lại thành Luật Người Cày Có Ruộng. Chánh phủ mua ruộng đất của điền chủ theo thời gía cao, cấp phát MIỄN PHÍ cho nông dân nghèo. Giới điền chủ có tiền xây nhà, kinh doanh có lợi cho gia đình và giúp phát triển đất nước. Nông dân, công nhân nghèo được thêm ruộng đất, được cho vay vốn làm ăn càng ngày càng khá lên. Con cái được học hành, đỗ đạt thành danh.
Thời đó, trước 30/4/75, đời sống nông dân Miền Nam khá cao. Nhà có đèn măng xông, máy hát dĩa, radio, cassette, máy bơm nước, máy cày, máy suốt lúa, v.v; nông nghiệp được cơ giới hoá. Xuồng, ghe có gắn máy đuôi tôm. Cá tôm đầy sông, đầy đồng. Nông dân mỗi ngày một khá lên, họ ăn gạo thơm ngon như gạo nàng hương. Người dân tự do thờ cúng Phật, Chúa, Tổ tiên, Ông Bà chớ không thờ Mỹ, Pháp hay kẻ ngoại nhân vô đạo.Lãnh vực giáo dục và y tế công hoàn toàn miễn phí. Nhờ vậy người dân nghèo được chữa trị, chăm sóc y tế đàng hoàng. Con cái được học hành đến nơi đến chốn. Nói đến học vấn chánh phủ còn cấp học bổng cho học sinh nghèo, đậu cao trong các kỳ thi tuyển vào Đệ Thất (lớp 6) Trung học, không có cảnh dành ưu tiên cho hạng con ông cháu cha như thời cộng sản. Miền Nam được tự do mọi mặt, thí dụ tự do: đi lại, cư trú (không cần hộ khẩu), tôn giáo, thông tin/báo chí, tư tưởng, sáng tác, hội họp, lập hội, lập đảng chánh trị, bầu cử, ứng cử, v.v... kể cả tự do biểu tình chống chánh phủ cũng không ai dám ngăn trở. Nhờ có tự do dân chủ thật sự mà chỉ trong 20 năm Miền Nam phát triển vượt bực. Đời sống người dân Miền Nam cao và văn minh hơn Đài Loan, Hàn quốc và nhiều nước chung quanh đồng thời kỳ.
1.1/ Bộ Phát triển Sắc Tộc và Bộ Chiêu Hồi: Chánh phủ VNCH lập ra Bộ Phát Triển Sắc Tộc giúp các sắc tộc người Thượng định cư, nâng đỡ đời sống người Thượng và giúp con cái của họ học hành. Chánh phủ VNCH cũng lập ra Bộ Chiêu Hồi, giúp các hồi chánh viên bỏ cộng sản trở về với đời sống Quốc gia được nâng đỡ mọi mặt, con cái được học hành đến nơi đến chốn.
Ngoài nông nghiệp; công kỹ nghệ thời VNCH cũng phát triển mạnh, thu hút đầu tư ngoại quốc, sản xuất được xe hơi La Đàlạt và nhiều mặt hàng khác không kể hết. Cùng thời điểm đó công kỹ nghệ Nam Hàn (Hàn quốc) còn thua xa VNCH. Đó là lý do thế giới ban tặng cho Sài gòn cái tên mỹ miều: Hòn ngọc Viễn Đông. Mời bạn đọc xem thêm tài liệu phía dưới.
(Còn tiếp phần 2)
Dân Nam
Một thuở Thanh Bình dưới thời TT Ngô Đình Diệm
Xóahttp://www.youtube.com/watch?v=C1_DA0YKQP4
Chính sách Cải Cách Điền Địa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
https://hon-viet.co.uk/GsLamThanhLiem_ChinhSachCaiCachDienDiaCuaTongThongNgoDinhDiem.htm
Bộ tem Người Cày Có Ruộng (1970 - 1975)
http://www.vietstamp.net/forum/showthread.php?t=9224
Lối xưa xe ngựa Sài Gòn cũ
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/09/29-loi-xua-xe-ngua-sai-gon-cu.html
Tiếng hát Thanh Thuý với Sai Gòn Hòn ngọc Viễn đông
http://www.youtube.com/watch?v=RVtrNPqCwQE&feature=related
Hình ảnh khi xưa bầu cử VNCH – Và vài hình ảnh bầu cử thời cộng sản
http://namrom64.blogspot.com/2012/08/hinh-anh-xua-bau-cu-vnch.html
Màu sắc áo dài xưa 1954-1975
https://www.youtube.com/watch?v=Y5dgcjIcnPw
Gởi lại link (nguồn) cho đúng:
XóaMàu sắc áo dài xưa 1954-1975
https://www.youtube.com/watch?v=kL1hcdkGsWg
(TT phần 1)
XóaPhần 2 Miền Bắc thời ông Hồ Chí Minh: Trong lúc đó, bà con Miền Bắc quá đói khổ. Lý do, HCM và đảng cộng sản nổi lên cướp chánh quyền Trần Trọng Kim vào tháng Tám 1945 và phá hoại thêm cơ hội Pháp trao trả độc lập, thống nhứt đất nước cho Bảo Đại năm 1949. Ông Hồ đem chủ nghĩa cộng sản và lá cờ đỏ chư hầu cộng sản Tàu Nga về nướng dân vào 9 năm kháng chiến và trận Điện Biên phủ SAI LẦM và KHÔNG CẦN THIẾT, để rồi ký tên chia hai đất nước với Pháp, phá nát Miền Bắc. Sau đó tiếp tục gây chiến xâm lăng và cướp trắng Miền Nam. Bao nhiêu triệu lương dân Bắc Nam chết ông Hồ và cộng sản Hà nội không động lòng đau xót.
Ngay sau 1954, Miền Bắc lọt vào tay ông Hồ thì ông ấy theo lệnh Trung cộng phát động phong trào CCRĐ bắt đầu giết dân, cướp đất, cướp nhà, cướp tài sản để bần cùng hoá và bóp bao tử bà con Miền Bắc. Chiếm hữu và phá sập đình chùa, nhà thờ, dẹp cả bàn thơ tổ tiên để thờ kẻ ngoại nhân Mác Lê. Theo tài liệu của đcs công bố có hơn 172.000 dân Bắc bị giết trong chiến dịch CCRĐ. Ngoài ra có hàng nửa triệu dân Bắc bị đày vào rừng sâu nước độc. Sau đó tiến đánh Miền Nam theo lệnh Nga Tàu, nướng hàng triệu dân Bắc vào lửa đạn trường sơn. Biết bao nhiêu người chết, thương tật, tàn phế. Biết bao nhiêu cô gái Miền Bắc phải lăn thân làm dân công, tải đạn, hộ lý... bây giờ già yếu sống đời cô đơn, bị thương tật từ tinh thần đến thể xác. Bao nhiêu người Miền Nam cùng chung dòng máu VN cũng bị phơi thây ngoài triến trường, trên rừng sâu. Sau năm 1975, Miền Nam buông súng xuống nhưng vẫn bị trả thù, hàng trăm ngàn người chết trong tù cải tạo, trong rừng sâu “kinh tế mới”, trên đường vượt biển, vượt biên,... không đếm xuễ. Dân Miền Nam bị đánh giết, bị cướp tả tơi, hà cửa, ruộng đất, tài sản bị tịch thu, bị trù dập tơi bời đến nay vẫn chưa chấm dứt. Từ CCRĐ Miền Bắc 1954 dẫn đến Cải tạo Công thương nghiệp Miền Nam sau 1975 đã đánh sập kinh tế Việt Nam. Cộng thêm nạn chiếm đoạt ruộng đất ở Miền Nam sau 1975 đã đẩy nông dân Miền Nam vào cảnh đói khổ, các cô gái nông thôn bỏ làng quê lên thành thị bán mình cho ngoại nhân.
Từ sau ngày cướp chánh quyền TT Kim năm 1945, ông Hồ nằm đó làm biểu tượng bảo vệ cờ đỏ, giúp đảng và nhà nước cộng sản tiếp tục tàn hại đồng bào, tiếp tục cướp nhà cướp đất, cướp cả mạng sống; mặc tình cho nông dân như gia đình Đoàn VănVươn, giáo dân, đồng bào Văn Giang, hai phụ nữ Cái Răng, Cần Thơ phải cỡi truồng chống cưỡng chế đất,... và bao nhiêu nạn nhân khác kêu khóc thảm thương, nhưng cộng sản Hà nội vẫn không động lòng. Đến độ bà Hiền Đức cháu ngoan của ông Hồ, thuộc dạng “Lão Thành Cách Mạng” còn phải nói ”thời Pháp đô hộ và thời VNCH người dân thật sự được làm chủ ruộng đất, còn thời nay thì không!” Và sau 1975, nhà văn nữ là cán binh cọng sản Bắc Việt - Dương thu Hương - vào Sài gòn thấy được sự thật giữa hai phe và hai miền đất nước bà Hương đã khóc và nói ”phe chiến thắng là lũ man dại, phe chiến bại là người văn minh!”
Quá chuẩn
Trả lờiXóa