Tháng 4.1977, tôi khoác chiếc ba lô lép kẹp đựng 2 bộ quần áo, chiếc vỏ chăn mỏng, cái màn một, vài cuốn sách ra bến Chùa Vẽ (Hải Phòng) xuống tàu khách Thống Nhất vào Nam nhận việc. Hơn 3 tháng ở nhà chờ quyết định công tác, tôi được thày bu bồi dưỡng chế độ cơm không độn, thức ăn hơn ngày thường nhưng cũng chỉ quanh qué mớ tôm mớ cá mua của mấy bà Tú Đôi đi chợ huyện, ngang qua nhà rao “ai mua cá ra mua”. Trước hôm đi, thày thịt con gà, nấu xôi, làm mâm cơm cúng tổ tiên ông bà phù hộ cho đứa đi xa. Các anh chị trong nhà và trong họ, người cho 5 đồng, người 10 đồng, cộng tiền thày bu cho nữa được hơn trăm bạc, tôi đem ra trụ sở Ngân hàng Hải Phòng ngoài phố đổi thành tiền miền Nam. 100 đồng bắc được 80 đồng nam giải phóng, mà chỉ cho đổi tối đa chừng ấy. Lúc đi, thày tiễn ra ngõ, bảo miền Nam gạo trắng nước trong, thóc gạo nhiều, cá tôm lắm, sẽ không đói như ở nhà đâu con ạ, đi đi, nhớ vào đến nơi thì viết thư về.
Khi ấy đã trôi gần 2 năm sau “giải phóng”, ông bạn đồng môn đồng hương học trước 1 khóa, thầy Nguyễn Văn Vy người Thủy Nguyên nhập cư Sài Gòn từ đầu năm 1976, bảo cuộc sống đã khác nhiều, xuống nhiều, nhưng dẫu sao cũng còn hơn ngoài mình. Bếp ăn tập thể 43 Nguyễn Chí Thanh quận 5, cơm trắng, ăn no thì thôi. Tôi thì thào nói với thày Vy, thế này thì sướng quá, bao nhiêu năm mới lại được ăn cơm không độn, chén no. Cầm bát cơm không độn nghĩ thương thày bu và đứa em gái ở nhà.
Sự đời ai ngờ được chữ… ngờ. Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Vài tháng sau, khoảng cuối tháng 7 đầu tháng 8 bắt đầu cuộc ăn độn. Bất cứ thứ gì có thể ăn được là nhà bếp độn vào chảo cơm. Khoai lang, khoai mì (củ sắn), bột mì, mì sợi, và đỉnh điểm là lúa mạch, dân gian gọi nôm na hạt bo bo. Nuốt không nổi cơm độn, tọng vào mồm trệu trà trệu trạo. Nhà bếp thấy vậy cũng chán, bảo các thầy ạ, thôi, từ giờ các thầy tự nấu lấy, chúng tôi chỉ nấu cho sinh viên thôi, tháng có mấy ký gạo chúng tôi không thể làm vừa miệng các thầy được…
Không bàn chuyện chính trị. Chỉ quan tâm các vấn đề xã hội. Đá để xây chứ không để ném. nguyenthong8355@gmail.com
Bạn bè
Tổng số lượt xem trang
Tìm kiếm Blog này
Hiển thị các bài đăng có nhãn mặt nghệt như mất sổ gạo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn mặt nghệt như mất sổ gạo. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021
Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021
Thành ngữ “Mặt nghệt như mất sổ gạo” (kỳ 6): Kho lương thực
Tháng 8.1964, máy bay Mỹ đánh ra miền Bắc. Lứa chúng tôi sinh sau ngày hòa bình lập lại, vào độ tuổi lên 10, lần đầu tiên biết thế nào là chiến tranh. Lại những cuộc sơ tán người và tài sản, chỉ không giống thời Pháp từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do, mà là kéo nhau về nông thôn. Các gia đình ngoài phố đưa con cái về nông thôn để tránh bom bởi thời ấy người ta nghĩ rằng phố xá là nơi máy bay Mỹ nhắm đến. Thực tế thì có những phố bị bom, bị đánh phá, nhưng chủ yếu là những trận địa, kho tàng, cầu cống, bến cảng… Những khu Sở Dầu, Thượng Lý, Xi Măng, cầu Niệm ở Hải Phòng bị bom, nhiều người chết, một phần do dính với những thứ ấy.
Người lớn là cán bộ công nhân viên thì ở lại cơ quan, nhà máy xí nghiệp làm việc, chỉ những người già cả, người không công ăn việc làm, người buôn bán phải đi sơ tán. Bọn trẻ con thì sơ tán trăm phần trăm. Trường học quê tự dưng đông gấp đôi gấp ba. Tôi còn nhớ thời ấy có bài hát “Về đồng quê” (chả nhớ của nhạc sĩ nào bởi lâu quá rồi, cũng không tìm thấy dấu vết trên mạng, kể cả Gu gồ) viết riêng cho đám trẻ sơ tán, vẫn thuộc mấy câu: “Về đồng quê em vui chơi học hành/Giúp đỡ gia đình cô bác bà con/Về đồng quê em đào mương chống Mỹ/Phân bón gây thật nhiều cho đồng lúa xanh tươi/Lúa lúa ơi em yêu cây lúa/Lúa nuôi anh bộ đội diệt quân Mỹ xâm lăng/Về đồng quê em yêu mến lũy tre làng/Chăm học chăm làm để cố gắng thành trò ngoan”… Các bạn sơ tán của tôi, giờ ít nhất cũng ngoài 60, chả biết có ai còn thuộc bài này.
Người lớn là cán bộ công nhân viên thì ở lại cơ quan, nhà máy xí nghiệp làm việc, chỉ những người già cả, người không công ăn việc làm, người buôn bán phải đi sơ tán. Bọn trẻ con thì sơ tán trăm phần trăm. Trường học quê tự dưng đông gấp đôi gấp ba. Tôi còn nhớ thời ấy có bài hát “Về đồng quê” (chả nhớ của nhạc sĩ nào bởi lâu quá rồi, cũng không tìm thấy dấu vết trên mạng, kể cả Gu gồ) viết riêng cho đám trẻ sơ tán, vẫn thuộc mấy câu: “Về đồng quê em vui chơi học hành/Giúp đỡ gia đình cô bác bà con/Về đồng quê em đào mương chống Mỹ/Phân bón gây thật nhiều cho đồng lúa xanh tươi/Lúa lúa ơi em yêu cây lúa/Lúa nuôi anh bộ đội diệt quân Mỹ xâm lăng/Về đồng quê em yêu mến lũy tre làng/Chăm học chăm làm để cố gắng thành trò ngoan”… Các bạn sơ tán của tôi, giờ ít nhất cũng ngoài 60, chả biết có ai còn thuộc bài này.
Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021
Thành ngữ mới “Mặt nghệt như mất sổ gạo” (kỳ 4)
Có người thắc mắc “sao lại nghệt?”, “nghệt nghĩa là gì?”… Vâng, từ ấy đã lâu lắm chẳng mấy ai dùng, thậm chí nó bị đì đến nỗi ngay trong một số từ điển tiếng Việt bản in giấy hoặc bản điện tử cũng không có mục từ. Nhà tôi có mấy cuốn từ điển tiếng Việt, tra cuốn rất uy tín của Viện Ngôn ngữ học, do GS Hoàng Phê (một đại thụ về ngôn ngữ) chủ biên, cũng không có. Cuốn “Việt Nam tân tự điển” của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí tái bản năm 1967 cũng không có “nghệt”. Trong Từ điển Hán Việt, phần tra nôm thì có nghệt, trong “Tratu” của từ điển điện tử, phần từ thuần Việt cũng có nghệt. Nói tóm lại, đó là thiếu sót của Viện Ngôn ngữ, nơi tụ hội tinh dững cây đa cây đề, giáo sư tiến sĩ chuyên về tiếng mẹ đẻ. Tôi dám nói “thiếu sót” bởi từ khi còn bé tí, chưa đi học, chưa biết chữ, tôi đã nghe những người xung quanh dùng từ “nghệt” này.
Lại nhớ, năm ấy khoảng 1964 chi đó, máy bay Mỹ chưa ném bom ra miền Bắc, có đoàn chèo về làng tôi tuyển diễn viên. Làng Trà quê tôi không phải đất chèo, nhưng có tiềm năng thế mạnh là nhiều con gái đẹp. “Cổ Trai đế vương, Trà Phương công chúa”, các cụ đã lưu truyền khẳng định vậy rồi. Mà công nhận các cụ nói chả sai tẹo nào. Cả làng tới 99% gia đình nông dân, phần lớn nghèo, làm ruộng vất vả, ăn uống kham khổ, đời sống thiếu thốn, nhưng đàn bà con gái rất đẹp. Các chú bộ đội rất thích được về đóng quân ở làng Trà, từ hồi bộ đội công binh đào hầm xuyên núi Trà theo gợi ý của chuyên gia Trung Quốc (giờ phải lấp bởi không dùng vào việc gì), rồi các tiểu đoàn 81, 82 tên lửa, rồi lữ đoàn đặc công nước 126, các chú mỗi lần về quơ mất bao nhiêu là gái làng, toàn cô xinh.
Lại nhớ, năm ấy khoảng 1964 chi đó, máy bay Mỹ chưa ném bom ra miền Bắc, có đoàn chèo về làng tôi tuyển diễn viên. Làng Trà quê tôi không phải đất chèo, nhưng có tiềm năng thế mạnh là nhiều con gái đẹp. “Cổ Trai đế vương, Trà Phương công chúa”, các cụ đã lưu truyền khẳng định vậy rồi. Mà công nhận các cụ nói chả sai tẹo nào. Cả làng tới 99% gia đình nông dân, phần lớn nghèo, làm ruộng vất vả, ăn uống kham khổ, đời sống thiếu thốn, nhưng đàn bà con gái rất đẹp. Các chú bộ đội rất thích được về đóng quân ở làng Trà, từ hồi bộ đội công binh đào hầm xuyên núi Trà theo gợi ý của chuyên gia Trung Quốc (giờ phải lấp bởi không dùng vào việc gì), rồi các tiểu đoàn 81, 82 tên lửa, rồi lữ đoàn đặc công nước 126, các chú mỗi lần về quơ mất bao nhiêu là gái làng, toàn cô xinh.
Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2021
Thành ngữ mới “Mặt nghệt như mất sổ gạo” (kỳ 4)
Lại nói, chỉ cán bộ công nhân viên ăn lương nhà nước và dân thành phố có hộ khẩu mới được cấp sổ gạo, còn những thành phần khác như nông dân, người lao động tự do, dân buôn bán phe phẩy… phải tự mày mò tìm gạo mà bỏ vào mồm. Người có sổ gạo, ít nhất cũng tạm yên tâm mỗi tháng có hơn chục ký lương thực, không lo nỗi tháng ba ngày tám, mất mùa, bão lụt thiên tai. Cứ tới ngày quy định, đem sổ ra cửa hàng lương thực mua gạo theo giá nhà nước, thường chỉ 3 - 4 hào/ký.
Nghe thì đơn giản dễ dàng, nhưng “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, không ở trong chăn sao biết chăn có rận. Riêng cái vụ xếp hàng mua gạo cũng đủ chất liệu cho cuốn tiểu thuyết dày dặn về thời bao cấp, các nhà văn ạ. Tôi có nhiều người thân mưu sinh ngoài phố, cũng chỉ công nhân viên hoặc buôn bán nhì nhằng, kể cho nghe nỗi khổ sổ gạo, mua gạo. Tháng nóng cũng như tháng rét, nửa đêm gà gáy đã mò mẫm dậy đi xếp hàng. Tưởng mình đi sớm, “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn/người đi cất bước trên đường thẳm”, ai dè tới nơi đã thấy dài dằng dặc. Đứng mãi mỏi chân thì đặt viên gạch, hòn đá, chiếc dép để xếp lốt, hoặc nhắn nhe gửi người trước người sau. Vậy nhưng tới khi mậu dịch viên mở cửa kêu nộp sổ, lại nháo nhào lên như chợ vỡ, thậm chí như bãi chiến trường, tranh cãi, chửi mắng, cả tỉ thí tay chân. Hạt gạo để ăn thấm đầy tủi nhục. Giành nhau hạt gạo bỏ vào mồm, chả khác gì đám thú hoang hung dữ cướp đoạt con mồi.
Nghe thì đơn giản dễ dàng, nhưng “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, không ở trong chăn sao biết chăn có rận. Riêng cái vụ xếp hàng mua gạo cũng đủ chất liệu cho cuốn tiểu thuyết dày dặn về thời bao cấp, các nhà văn ạ. Tôi có nhiều người thân mưu sinh ngoài phố, cũng chỉ công nhân viên hoặc buôn bán nhì nhằng, kể cho nghe nỗi khổ sổ gạo, mua gạo. Tháng nóng cũng như tháng rét, nửa đêm gà gáy đã mò mẫm dậy đi xếp hàng. Tưởng mình đi sớm, “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn/người đi cất bước trên đường thẳm”, ai dè tới nơi đã thấy dài dằng dặc. Đứng mãi mỏi chân thì đặt viên gạch, hòn đá, chiếc dép để xếp lốt, hoặc nhắn nhe gửi người trước người sau. Vậy nhưng tới khi mậu dịch viên mở cửa kêu nộp sổ, lại nháo nhào lên như chợ vỡ, thậm chí như bãi chiến trường, tranh cãi, chửi mắng, cả tỉ thí tay chân. Hạt gạo để ăn thấm đầy tủi nhục. Giành nhau hạt gạo bỏ vào mồm, chả khác gì đám thú hoang hung dữ cướp đoạt con mồi.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)