Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn thành ngữ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thành ngữ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021

Thành ngữ mới: Đời đời bền vững

Không phải tự dưng tôi nhắc lại thành ngữ này. Nó là thứ sản phẩm lịch sử, con đẻ của những người cộng sản, không chỉ ở xứ ta. Khi đã tự tin cho rằng mình là đỉnh cao thì mọi điều do mình thực hiện đều trường tồn, mãi mãi. Đó là thứ tư duy đặc sệt duy tâm trong bộ óc duy vật ấu trĩ của kẻ vô thần.

Hôm trước, tình cờ tôi nghe lại được cụm từ “đời đời bền vững” từ mồm một vị sừng sỏ. Chả là mở tivi rà kênh, thấy kênh Nhân Dân đang có ông hùng hồn dạy bảo. Ngó kỹ thấy đề PGS-TS (phó giáo sư-tiến sĩ), nhà báo Đức Dũng. Ai chứ vị này thì lên tivi thường xuyên, chuyên gia “Nhận diện sự thật”. Bạn xem đài nào ngây thơ khờ khạo, nếu nghe ổng nói sẽ tin sái cổ nhà truyền đạo cộng sản này. Phó giáo sư chứ đùa. Đâu phải dạng đồng chí Quang lùn.
 
Tôi nghe từ mồm chuyên gia nhận diện sự thật những lời có cánh về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, về sự nghiệp cách mạng vĩ đại và vẻ vang của giai cấp vô sản sẽ hoàn toàn thành công và đời đời bền vững. Ổng nói rất say sưa, thể hiện niềm tin rất chân thành (hoặc giả vờ chân thành một cách khéo léo). Công nhận mấy anh bắc quá nhiều lý luận, lý sự. Chỉ có điều, họ “nhận diện sự thật” nhưng chẳng tòi ra tí sự thật nào, hoặc chỉ một nửa sự thật. Họ thừa hiểu, dại gì vạch áo cho người xem lưng.

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2021

Thành ngữ mới “Mặt nghệt như mất sổ gạo” (kỳ 4)

Lại nói, chỉ cán bộ công nhân viên ăn lương nhà nước và dân thành phố có hộ khẩu mới được cấp sổ gạo, còn những thành phần khác như nông dân, người lao động tự do, dân buôn bán phe phẩy… phải tự mày mò tìm gạo mà bỏ vào mồm. Người có sổ gạo, ít nhất cũng tạm yên tâm mỗi tháng có hơn chục ký lương thực, không lo nỗi tháng ba ngày tám, mất mùa, bão lụt thiên tai. Cứ tới ngày quy định, đem sổ ra cửa hàng lương thực mua gạo theo giá nhà nước, thường chỉ 3 - 4 hào/ký.

Nghe thì đơn giản dễ dàng, nhưng “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, không ở trong chăn sao biết chăn có rận. Riêng cái vụ xếp hàng mua gạo cũng đủ chất liệu cho cuốn tiểu thuyết dày dặn về thời bao cấp, các nhà văn ạ. Tôi có nhiều người thân mưu sinh ngoài phố, cũng chỉ công nhân viên hoặc buôn bán nhì nhằng, kể cho nghe nỗi khổ sổ gạo, mua gạo. Tháng nóng cũng như tháng rét, nửa đêm gà gáy đã mò mẫm dậy đi xếp hàng. Tưởng mình đi sớm, “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn/người đi cất bước trên đường thẳm”, ai dè tới nơi đã thấy dài dằng dặc. Đứng mãi mỏi chân thì đặt viên gạch, hòn đá, chiếc dép để xếp lốt, hoặc nhắn nhe gửi người trước người sau. Vậy nhưng tới khi mậu dịch viên mở cửa kêu nộp sổ, lại nháo nhào lên như chợ vỡ, thậm chí như bãi chiến trường, tranh cãi, chửi mắng, cả tỉ thí tay chân. Hạt gạo để ăn thấm đầy tủi nhục. Giành nhau hạt gạo bỏ vào mồm, chả khác gì đám thú hoang hung dữ cướp đoạt con mồi.

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

Thành ngữ mới: Thành công tốt đẹp (phần 2)

Sự thành bại ở trên đời là một thứ quy luật, sản phẩm của tạo hóa. Nói theo kiểu triết học, là một cặp phạm trù, có thành thì có bại, cũng như tốt - xấu, hay - dở, khôn - dại, tròn - méo… vậy thôi.

Chẳng có ai cả đời chỉ thành mà không bại, hoặc chỉ bại mà không thành. Thể chế, bộ máy, chế độ, tổ chức, cơ quan, chính quyền, nhóm lãnh đạo… đều như thế. Dù là chủ tịch nước hay đứa làm thuê cũng đều có lúc thành khi bại. Chỉ kẻ hoang tưởng, tự sướng, sống trên mây mới dám tự nhận mình “đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”, thành công, thành công, đại thành công, đời đời, muôn năm, sống mãi.

Các cụ xưa dạy chớ lấy thành bại mà luận anh hùng. Thành không hẳn đã anh hùng. Bại chưa chắc đã tiểu nhân hèn hạ tầm thường. Cụ Phan Bội Châu tự nhận “đời tôi một trăm lần thất bại nhưng chưa một lần thành công” nhưng chẳng ai dám coi thường xem thường cụ. Các cụ Phan Sào Nam (Phan Bội Châu), Phan Chu Trinh trong mắt nhìn và suy nghĩ của dân ta là những đấng anh hùng. Cụ Nguyễn Thái Học làm cách mạng và bị lên đoạn đầu đài (máy chém) vẫn an ủi các đồng chí cùng số phận rằng chúng ta “không thành công thì cũng thành nhân”. Những đương sự Nhân văn giai phẩm như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Hữu Loan, Trần Dần, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Hoàng Cầm… bị đày ải, người vào tù, kẻ long đong lận đận. Những Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang, Đặng Kim Giang,

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

Thành ngữ ‘Mặt nghệt như mất sổ gạo’

Chưa cần liếc gì thêm, chỉ đọc mấy chữ đó, nhiều người nghĩ ngay tới thời bao cấp, ngẫm lại đến giờ đầu óc còn khiếp; nhớ mở rộng chút nữa là thời tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tiến mãi không tới nơi; thu hẹp một chút thì là cuộc sống kinh tế và xã hội miền Nam sau biến cố “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm Ất Mão, 1975 tháng 4.

Các cụ xưa thường dạy “ôn cố tri tân”, nghĩa là nhắc lại, xem lại (ôn) cái cũ để biết (tri) cái mới. Thú thực, có những thứ cũ, quên đi càng tốt, quên nhanh, quên được bao nhiêu hay bấy nhiêu, bởi mỗi lần gợi nhớ, mỗi lần ôn lại chỉ tổ rùng mình. Không ít lần, tôi tự hỏi tại sao bản thân và nhiều người như mình, thế hệ mình lại sống được trong cái vũng lầy lịch sử ấy, mà không bị chết bởi đói, bởi khốn cùng, bế tắc, tuyệt vọng, liều mình như biết bao người. Nếu chiến tranh bom đạn chết chóc từng giây xô đẩy người ta vào cùng đường đã đi một nhẽ, đằng này ngay cả khi hòa bình, cuộc sống tự do, đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh… nó vẫn vênh váo ngự trị. Nó được gọi bằng cái tên “thời bao cấp”, trong chứa đựng đủ cả nghèo đói, bất công, khốn khổ, lầm than. Và cha đẻ của nó, không phải ai khác, chính là người cộng sản, bên thắng cuộc.

Thứ Tư, 28 tháng 10, 2020

Thành ngữ mới: Thành công tốt đẹp

Con người ta, phàm làm việc gì luôn muốn đạt kết quả theo ý mình. Việc lớn việc nhỏ đều vậy. Cái kết quả ấy được gọi là thành công. 

Thành công là từ gốc Hán Việt. Thành có nghĩa xong, kết thúc. Thành tựu là xong việc (tựu), hoàn thành là xong xuôi trọn vẹn (hoàn). Công nghĩa là việc, công cụ là đồ dùng (cụ) để làm việc, công hiệu để chỉ kết quả (hiệu) của việc làm. Thành công, hiểu ngắn gọn và chính xác, tức là một công việc được làm, được tiến hành có kết quả như ý. Kết quả đầy đủ, trọn vẹn thì được coi là thành công tốt đẹp.

Đối lập với thành là bại (thua, hư, hỏng). Bại trận là thua trận, bại tướng là tướng thua trận, bại vong có nghĩa không chỉ bị thua mà còn mất, chết (vong). Văn cổ có câu “bại liễu tàn hoa”, tức cây liễu đã héo, đóa hoa cũng tàn. Cô gái đẹp ngày xưa được ví với cây liễu, bông hoa, vì vậy bại liễu tàn hoa để chỉ đời người con gái gặp sự không may, ê chề, đời bỏ đi, những cô ca kỹ - lầu xanh. Người ta cũng thường nói với nhau thành bại là sự thường, có khi thành, có khi bại, chớ lấy thành bại mà luận anh hùng. Chả ai có thể thành công cả đời, cũng như không ai cả đời thất bại. Đó là thứ quy luật, lẽ tự nhiên, vấn đề ở chỗ có dám nhìn thẳng vào nó hay không.

Người xưa suy nghĩ về thành bại rất tỉnh, rõ ràng, hiểu cơ trời và ý chí con người. Đạt được thành công, cổ nhân không nông cạn vơ tất cả về mình. Cụ Nguyễn Trãi kết bài “Cáo bình Ngô” bằng lời rất đáng suy ngẫm “Muôn thuở nền thái bình vững chắc/Nghìn thu vết nhục nhã sạch làu/Âu cũng là nhờ trời đất tổ tông linh thiêng âm thầm phù trợ mới được như vậy”.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

Góp ý với các nhà báo (phóng viên, biên tập viên): Tại ngoại hậu tra

Hôm 11.7, công an ban lệnh khởi tố tay phó chủ tịch thành phố HCM Trần Vĩnh Tuyến về tội “tham nhũng”. Trúng ngày thứ bảy cuối tuần, tin tức đang hẻo, báo chí như bắt được vàng, đồng loạt khai thác sự kiện nóng này. Tôi ngồi trên xe khách lắc lư từ Bảo Lộc về, mắt nhắm mắt mở do say xe, đọc cái tít của “tờ” Vietnamnet, rằng “Ông Trần Vĩnh Tuyến được tại ngoại hầu tra”. Chán, báo với chả chí, chữ với chả nghĩa.

Những người làm trong cơ quan bảo vệ pháp luật chắc không mấy ai lạ lẫm với cụm từ Hán Việt này. Đúng ra, chính xác phải là “tại ngoại hậu tra”, mà chính xác hơn nữa thì “tại ngoại hậu cứu”. Nhưng người ta cứ “hầu tra” riết, thế rồi cứ coi như vậy thành đúng. Báo chí sai đã đi một nhẽ, thậm chí có cả những luật sư, quan tòa, công tố viên, kiểm sát viên, rồi cả ông to bà nhớn lãnh đạo cơ quan pháp luật cũng mở mồm “tại ngoại hầu tra”.

Để biết đúng sai, cần xem xét nghĩa của từng chữ trong cụm Hán Việt này. “Tại” nghĩa là ở, chỉ vị trí một nơi nào đó. Tu tại gia là tu ngay ở nhà (chứ không cần vào chùa), học tại chức là học khi đang còn giữ chức vụ làm việc (không cần phải nghỉ hẳn để tập trung suốt thời gian trong trường). Xưng hô “tại hạ” tức là khiêm tốn với người trên, cấp trên, ý rằng mình đang ở (tại) dưới (hạ) người ta.

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019

Thành ngữ Lầm đường lạc lối

Câu thành ngữ này không phải mới mà chắc có từ lâu lắm rồi. Bằng chứng là trong kho dân ca vùng Nghệ Tĩnh có bài ví dặm “Giận mà thương” kể về tâm sự của chị chàng có chồng không chịu nghe lời cha mẹ và… vợ. Hồi tôi còn nhỏ tí, đầu thập niên 1960 đã nghe từ cái loa kim bằng gỗ gắn trên tường phát bài này. Mỗi tuần, đài tiếng nói Việt Nam lại phát đôi lần chương trình “Dân ca và nhạc cổ truyền”, bữa thì chèo, bữa quan họ, hôm thì dân ca đồng bằng Bắc Bộ, dân ca Nghệ Tĩnh, hát bài chòi xứ Quảng… Nhờ cái đài rẻ tiền ấy mà chỉ ngồi ở nhà cũng biết được ối thứ.

Thế cái cô vợ xứ Nghệ kia than thở điều gì? Cô kể lể “Anh cứ nhủ rằng em không thương/Em đo lường thì rất cặn kẽ/Chính thương anh nên em bàn với mẹ/Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường/Giận thì giận mà thương thì thương/Giận thì giận mà thương thì thương/Anh sai đường thì em không chịu nổi/Anh yêu ơi xin đừng có giận vội/Mà trước tiên anh phải tự trách mình”, đại loại vậy.

Chị chàng rất khôn, lúc nào cũng “anh yêu”, “anh yêu”, có yêu không còn phải xem lại, chứ sự coi chồng là kẻ nông nổi, dại dột thì rất rõ. Mấy bà vợ dù thời nào, ở đâu cũng vậy. Chỉ mình đúng, còn người khác, dù chồng, đều sai. Đây mới chỉ là chuyến “ngược Lường” (lên vùng núi xa xôi để làm ăn), chỉ “sai đường” nên mới có sự nhẹ nhàng khuyên răn, “bàn với mẹ”, chứ nếu tòm tem cô nọ cô kia thì “mày cứ chết với bà”, ở đó mà khuyên, nhá.

Câu thành ngữ này chia làm 2 cặp, dùng từ tương ứng: Lầm đường - lạc lối. Đáng nhẽ chỉ một vế là đủ, nhưng người ta muốn nhấn mạnh. Đã lầm lại còn lạc. Đã đường lại còn lối. Lầm lạc cả đường lối thì sai quá, nặng quá rồi. Sắp hết thuốc chữa rồi.

Trong đời sống xã hội và sinh hoạt bình thường, thành ngữ “Lầm đường lạc lối” ít được dùng. Con cái làm điều gì sai, bố mẹ tìm cách dạy bảo, tệ quá thì nọc ra đánh. Học trò trốn học, lười học, không chịu làm bài thì thầy cô giáo trị bằng điểm kém, báo lên ban giám hiệu. Chả bố mẹ, thầy cô nào bảo đó là lầm đường lạc lối. Vậy ai dùng? Chỉ có những người làm chính trị, những đảng phái mới hay sử dụng câu này.

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2018

Góp ý với các nhà báo: Bài hay bày?

Sau trận thắng của đội tuyển Việt Nam trước đối thủ to khỏe Phi Luật Tân trên sân nhà Mỹ Đình, một không khí cuồng nhiệt, phấn khởi tràn ngập trong đời thực lẫn trên mặt báo. Sẽ còn đá 2 trận chung kết với đội Mã Lai để giành vòng nguyệt quế, tức là còn phải thử sức thử tài, mưu mẹo nhiều nữa. Vậy nên rất nhiều báo đã nhanh nhảu làm công việc dự báo, tiên đoán, hình dung, cầm đèn chạy trước ô tô, với cái tít “Thầy phù thủy Park sẽ bày binh bố trận sắp tới như thế nào?”.

Đang máu bóng đá, người đọc rất dễ bỏ qua cái sai của từ ngữ trên tít và trong bài. Sai ở từ “bày binh”, một lỗi nhầm lẫn, dùng tùy tiện từ Hán Việt và thuần Việt.

Trong thành ngữ cổ có câu “bài binh bố trận”, thường được dùng khi nói tới nội dung quân sự. Xét về mặt ngôn ngữ, thành ngữ này hoàn toàn từ Hán Việt (bài, binh, bố, trận), không có từ thuần Việt chen vào. Từ “bài” và từ “bố” đều có nghĩa là sắp xếp, sắp đặt, bày ra, bày đặt, dàn xếp, bố trí, xếp đặt… Người cầm quân (binh) khi tổ chức trận đánh (trận) thường có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là về địa hình, lực lượng, thời gian, tìm hiểu đối phương… để tránh mọi sai sót, nắm chắc phần thắng. Công việc ấy là bài và bố. Thuật ngữ quân sự gọi đó là “bài binh bố trận”. Cũng có trường hợp người ta ra trận, đi đánh nhau mà không cần bài binh bố trận, chẳng hạn dân binh nghĩa sĩ trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ Đồ Chiểu: “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn/Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố”, tuy nhiên đánh kiểu “lấy tinh thần làm sức mạnh” như vậy thì rất dễ thua, nhất là trong những cuộc chiến tranh hiện đại.

Chủ Nhật, 10 tháng 9, 2017

Tìm hiểu câu thành ngữ Trọng nghĩa khinh tài

Có một bạn trẻ, sinh viên đàng hoàng, hỏi tôi chú ơi sao lại “trọng nghĩa khinh tài”, trọng nghĩa thì được chứ khinh tài là làm sao, tài, tài năng cũng rất đáng trọng chứ, v.v.. Bạn ấy hỏi một lèo khiến tôi hiểu rằng cái thành ngữ tưởng như khá rõ nghĩa này hóa ra vẫn có người hiểu sai hiểu lệch.

Điều đầu tiên cần nhắc ngay, câu thành ngữ nói trên thuần dùng từ Hán Việt. Vậy ta nên vỡ vạc chút ít từng từ để nắm được cái cốt lõi (có liên quan đến nội dung thành ngữ) của mỗi từ.

“Trọng” có nhiều nghĩa, trong đó 2 nghĩa chính là nặng, coi là nặng; tôn kính, tôn quý. Về nghĩa thứ nhất, ta thường nói trọng lượng, tức là vật gì đó nặng bao nhiêu. Trọng bệnh là bệnh nặng (trái nghĩa với bệnh nhẹ, dễ chữa), trọng thương là bị thương nặng, trọng trách là trách nhiệm nặng nề, trọng phạm là kẻ phạm tội nặng… Trọng cũng có nghĩa là tôn trọng, tôn kính, nể vì, chẳng hạn “Cha mẹ tôi rất trọng bác ấy bởi bác luôn quên mình, chỉ nghĩ đến mọi người”. Trong thành ngữ nói trên, trọng nghiêng về nghĩa “nặng”.

Đối ngược với trọng là “khinh”. Khinh nghĩa là nhẹ, xem nhẹ, coi nhẹ. Khinh khí tức là khí nhẹ (chẳng hạn khí hydro), khinh kỵ là lực lượng kỵ binh (lính cưỡi ngựa) tác chiến nhanh nhẹn, khinh thân là xem cái thân của mình là nhẹ, không đáng kể… Xưa truyện tiếu lâm kể về anh chàng hay nói chữ một cách máy móc. Bị đánh mấy roi vào một bên mông, anh ta vừa xoa chỗ đau vừa than thở “nhất bên trọng, nhất bên khinh” (một bên nặng, một bên nhẹ; một bên có, một bên không), quan nghe vậy bèn sai lính nọc ra đánh thêm vào bên mông kia vài roi nữa cho cân, khỏi thắc mắc trọng khinh, nặng nhẹ. Ngoài ra, mở rộng từ nghĩa “xem nhẹ” nói trên, khinh còn có nghĩa là sự bày tỏ thái độ không hài lòng với ai hoặc điều gì đó, chẳng hạn khinh thường, khinh bỉ, khinh miệt, khinh mạn. Trong câu thành ngữ mà chúng ta đang nhắc tới, nghĩa chính của khinh là nhẹ, xem nhẹ.