Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn thày tôi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thày tôi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

Dạy con những điều bình thường nhất

Một chị bạn trẻ đồng nghiệp tôi vừa gặp chuyện không may, con trai chị ấy (độ 4-5 tuổi) bị bỏng nước sôi, cái bình thủy (phích) để hớ hênh trên bàn bị đổ, cháu phải vào viện, cả hai mẹ con mất mấy ngày lo lắng, bỏ cả công ăn việc làm...

Nhìn vẻ mặt rầu rĩ, lo lắng của vợ chồng bạn, tôi sực nhớ những bài học đầu đời. Mà “thầy giáo” có phải ai xa lạ đâu, chính là người nhớn, người thân trong gia đình. Vậy mà thấm mà bền lâu, cực kỳ có ích trong cuộc sống sau này.

Hồi xưa, thày (bố) tôi luôn nhắc khi nhà có trẻ con phải hết sức thận trọng chuyện nước sôi, củi lửa. Đừng xách siêu nước sôi đi qua chỗ đông người, nhất là chỗ có trẻ con, bởi chúng hiếu động có thể nhào ra mà ta không tránh kịp. Phích nước sôi hoặc nồi canh nóng phải để xa tầm tay với của trẻ, vào chỗ thật chắc chắn, bởi trẻ có thế với lên làm đổ, ụp xuống người thì khổ. Có một lần, thấy bà xã nấu xong nồi canh mùng tơi, bắc ra để vào bàn ăn nhưng gần mép bàn, tôi nhớ tới lời dạy của tiền nhân và nhắc nhở. Bà xã cười, dào, nhà mình tinh người lớn, làm sao phải sợ. Đúng sau đó, đứa cháu họ nhà bên cạnh chạy ù vào, với tay ngay sát nồi canh. May người lớn chặn lại kịp. Cả nhà thở phào, hú vía.

Đồ thủy tinh cũng vậy, để xa trẻ, tránh chỗ trẻ hay chơi, chúng có thể làm rơi làm vỡ, mảnh sắc nhọn sẽ cứa vào chân tay chúng.

Có những điều chả bao giờ chúng ta nghĩ tới nhưng ít nhất cũng phải dè chừng với ai đó một lần. Thày tôi thường dặn nhớ nhắc nhở trẻ con đừng ngậm đũa, ngậm tăm, que nhọn, không may lúc chạy nhảy mà ngã sẽ bị đâm vào cổ, rất nguy hiểm. 

Hồi tôi còn bé, nhà nghèo, quần áo chỉ bộ nghiêm bộ nghỉ. Nhớ có buổi trưa, tôi lấy vội bộ đồ đang phơi trên dây ngoài sân nắng vào định mặc ngay để kịp giờ đi học. Thày tôi ngăn lại, bảo quần áo đang nóng, cả chăn mền cũng vậy, mặc vào hoặc đắp vào người rất độc, dễ bị ốm (bệnh). Nhiều người bị cảm nắng là do vậy. Cụ khuyên lấy cái quạt nan quạt cho nguội rồi hãy mặc. Giờ nhìn tủ áo của ông con giai, quần áo chất đống, sực nhớ ngày xưa. Nó sẽ không rơi vào hoàn cảnh như mình nhưng những bài học đầu đời thì cứ nên truyền lại.

Nguyễn Thông
(Bài đăng trên báo Thanh Niên, chủ nhật 25.2.2018)

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2016

Quả táo tây

    Sáng nay mùng 5 Tết dọn bàn thờ tổ tiên ông bà, thay cốc nước, lau tàn nhang, bỏ bình hoa sắp tàn, xin các cụ cho đem đĩa trái cây xuống để con cháu hưởng lộc, tôi chợt nhớ chuyện xưa.

    Trong đĩa trái cây có những quả táo tây. Quả nào quả nấy to mọng, căng tròn, ánh lên sắc hồng đỏ nâu tím. Cứ như tem của siêu thị ghi thì đó là táo Úc, không phải táo Trung Quốc. Những quả táo, chỉ nhìn đã phát thèm.

    Cuối những năm 70, đầu 80 thế kỷ trước cuộc sống thật thiếu thốn khó khăn. Mãi khi vào Nam nhận công tác năm 1977 tôi mới được nếm mùi vị táo tây, mà cũng chỉ một miếng nhỏ trong bữa tiệc cuối năm. Nó có cái ngon riêng so với táo dai, táo xoan, táo Thiện Phiến xứ ta, nhưng về hình thức thì ăn đứt, sang trọng, hấp dẫn hơn nhiều.

    Tôi có chú em rể họ, chú Thọ, dân Kim Sơn, Tân Trào (Kiến Thụy), lấy con cậu ruột tôi. Y làm thủy thủ tàu viễn dương Công ty Vosco. Thời ấy, thủy thủ Vosco được coi như thượng đẳng thần, kỹ sư bác sĩ cũng chỉ xách dép cho họ. Khi cả xã hội, trong đó có nhiều giáo sư tiến sĩ “vua biết mặt chúa biết tên” gò lưng trên chiếc xe đạp thì các vị thần này thả sức lướt trên xe máy Nhật mới coóng, cúp 81 kim vàng giọt lệ. Mình vừa đạp vừa quệt mồ hôi vã ra, còn chúng nhẹ lướt qua, tiếng máy êm như ru, để lại làn khói xanh mỏng. Con gái nhà nào mà chớp được chàng viễn dương Vosco thì chả khác gì lấy được cả chục thằng A Phủ làm chồng.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Ngày rằm Vu lan, nhớ thày tôi

Mùa Vu lan, người ta thường nhớ thường nhắc đến mẹ, có lẽ theo cái tích xưa bên Ấn Độ, ông  Mục Kiền Liên báo hiếu để giải thoát cho mẹ khỏi sự đọa đày. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ dựa vào bài văn của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết bài hát rất hay Bông hồng cài áo nói về cái tình của con đối với mẹ, thường được cất lên vào dịp này.
 
Tôi rất yêu kính mẹ tôi, cả đời mẹ tần tảo làm ruộng, buôn thúng bán bưng nuôi cả gia đình, nuôi các con khôn lớn. Càng về già, mẹ càng hồn hậu, đầy tình thương yêu. Khi mẹ mất, chúng tôi 4 chị em cảm thấy như sụp đổ bầu trời.

Nhưng hôm nay, rằm tháng 7, mùa Vu lan, tôi lại nhớ nhiều đến thày tôi.

Quê tôi, vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, đất Hải Phòng, người ta quen gọi bố (cha) là thày. Thày với thầy đều là một, nhưng có lẽ để phân biệt với thầy giáo (gọi tắt là thầy) nên người dân quê tôi kêu bố bằng thày.

Thày tôi nếu giờ còn sống đã tròn 105 tuổi. Cụ thuộc thế hệ nho học nửa chừng. Đọc thông viết thạo cả chữ Hán và chữ Pháp nhưng chỉ làm ruộng. Biết rất nhiều, chỉ để truyền đạt cho các con. Làm ruộng trồng trọt rất giỏi, luôn là người đầu tiên khai mở cái mới ở vùng làng xã mình. Và là người cuối cùng chịu vào hợp tác xã bởi ngay từ đầu những năm 1960 thày tôi đã nhìn thấy những vô lý của mô hình nông nghiệp này. Những năm 60-70 hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng thày tôi bắt các con phải học cho bằng được, không phải để làm ông nọ bà kia, quan chức gì, mà chỉ vì thày bảo “nhân bất học, bất tri lý; ấu bất học, lão hà vi” (người mà không học thì không hiểu lẽ đời; còn nhỏ mà không học thì về già biết làm cái gì).

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Học cụ Nguyễn và thày tôi

Cụ Nguyễn, ấy là cụ Nguyễn Tuân, nhà văn nổi tiếng của xứ ta. Người đời, thời cụ còn sống cũng như sau này hay nhắc đến cụ với câu nói, tương truyền "tôi sống được đến hôm nay là nhờ biết sợ". Tôi thì tôi lại đồ rằng cụ Nguyễn không bao giờ phát ngôn thế, hoặc nếu có thì cũng chỉ là lúc hài hước vui vẻ mà đùa vậy thôi. Bởi con người, khí chất cụ Nguyễn mà thế hệ tôi biết và đọc qua tác phẩm cụ khác cơ.

Cụ Nguyễn Tuân cùng tuổi với cụ thân sinh tôi, quê tôi gọi là thày, cùng năm Canh Tuất 1910. Cụ Nguyễn nhà văn ngồi chiếu trên trong làng văn nghệ, còn thày tôi chỉ nông dân chân quê đồng ruộng. Thày tôi cùng năm sinh nhưng chịu cảnh lạc thời bởi học nho vào lúc đã tàn mà tây học thì lại chưa đến nơi đến chốn. Thông thạo cả chữ nho chữ Pháp nhưng hầu như suốt đời làm ruộng. Có chút kiến thức sống nơi quê kệch nên cũng khác người, mà đặc biệt nhất là không cam chịu, cúi đầu, không chấp nhận lề thói tầm thường, cái ngang tai trái mắt. Thời Pháp cai trị cũng thế mà thời ta "làm chủ tập thể" cũng thế. Không ít lần thày tôi thảo đơn bỏ vào phong bì dán cẩn thận bên ngoài đề "Kính gửi thủ tướng Phạm Văn Đồng" nội dung tố cáo bọn quan tham cấp xã cấp huyện, đưa cho anh em tôi đem lên bưu điện huyện Kiến Thụy gửi. Chả biết họ có chuyển cho thủ tướng hay không, có giải quyết vụ nào không nhưng thày tôi vẫn nhất mực giữ lòng tin, nguyên tắc bất di bất dịch rằng sống ở trên đời phải đấu tranh với cái xấu cái ác, cái phủ nhận giá trị con người. Vì vậy, dư luận gọi thày tôi là ngang, là gàn. Nhưng người làng quê tôi mỗi lần nhắc đến sự ngang sự gàn ấy bao giờ cũng gửi vào đó niềm kính trọng đối với một nhân cách ngay thẳng. Mấy anh chị em tôi người nào cũng chịu ảnh hưởng sâu nặng của nhân cách này. Mà hình như cũng chả phải chỉ có ở trong gia đình tôi mà phổ biến trong cả dòng họ. Những người anh con các bác tôi hầu như ai cũng thế, sau này các cháu cũng thế, mặc dù có đứa làm đến chót cấp tá, hiệu trưởng hiệu phó các trường... Họ nhà tôi bị coi là gàn nhất làng Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.