Đây là 2 từ dịch từ tiếng Hán để chỉ 2 dạng vật thể vũ khí khác nhau. Lôi tiếng Hán nghĩa là mìn, thứ vật thể nổ. Hồi tôi còn bé được coi một cuốn phim Trung Quốc có tên "Chiến dịch địa lôi", dạng phim ta thắng địch thua, mìn (lôi) cài khắp nơi trên đất (địa), bọn Nhật đi tới đâu cũng bị mìn nổ tan xác, rất ghê.
Thủy lôi là mìn thả dưới nước (thủy). Thả ở vùng nào thì nổi lững lờ ở vùng đó, tàu thuyền đối phương chạm phải sẽ nổ. Hồi giữa năm 1972, hải quân Mỹ thả thủy lôi dày đặc vùng biển Hải Phòng quê tôi, phong tỏa cảng tới mức chiếc thuyền thúng bơi ra cũng không lọt. Có chiếc tàu Cuba chở hàng vào cảng rồi, bốc hàng xong không tài nào ra được nữa, tiện thể ở lại chiến đấu cùng bà con ta luôn, một thủy thủ Cuba đã hy sinh khi máy bay Mỹ đánh vào bến Sáu Kho.
Ngư lôi là dạng mìn (lôi) nhưng chuyển động được ở dưới nước. Ngư là con cá, "lý ngư vọng nguyệt" là con cá chép ngóng mặt trăng, ngư dân là người dân đánh cá, ngư nghiệp là nghề đánh cá. Quả "mìn" này phóng bơi như con cá, có điều khiển, giống như tên lửa (hỏa tiễn) chỉ có điều tên lửa thì bay bằng chất đốt (hỏa), còn ngư lôi phóng tới bằng cánh quạt gắn dưới đuôi chạy bằng động cơ điện. Ngư lôi có hình dạng ống, dài, còn thủy lôi thường tròn, hình khối.
Cái quả đạn của Tàu cộng còn mới tinh mà bà con ta vừa vớt được là ngư lôi chứ không phải thủy lôi. Nó có ý răn đe những chiến hạm nổi (tàu khu trục, tàu hộ vệ tên lửa) và chìm (tàu ngầm Kilo) của ta đó thôi.
Nguyễn Thông
Rất tinh tường và sâu xa! Lạ, một cái ông cựu nhà báo này lại biết tường tận và nghĩ những điều lo lắng lớn lao đến thế, nhưng bên vài trăm tướng lĩnh có biết và nghĩ được thế không nhỉ ?
Trả lờiXóaHỏi và cũng là trả lời rồi đó bạn !