Cầm cuốn sách “Những ngày tháng năm” của Phan Thúy Hà, cũng không đến nỗi dày, chỉ 263 trang, tôi tần ngần mãi. Chẳng phải không muốn đọc, dù chính tôi đã đọc nó rồi khi còn bản thảo, mà sợ rơi vào tâm trạng ghê sợ chiến tranh. Cả cuốn sách là nỗi buồn chiến tranh, phơi bày thực chất chiến tranh mà lâu nay người ta cố giấu trong các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Tôi đã đọc nhiều, có thể nói hầu hết tác phẩm dòng phi hư cấu của Hà, thậm chí có những cuốn được tác giả tin cậy cho đọc trước khi xuất bản, nhưng chưa lần nào để viết đôi dòng về sách lại dùng dằng, khó, vất vả như với cuốn này.
Sách của Hà luôn chứa đựng những nỗi buồn vốn sẵn trong đời sống, nhất là hoàn cảnh chiến tranh. Buồn muốn hét lên, như khi đọc “Gia đình”, “Đừng kể tên tôi”, “Qua khỏi dốc là nhà”, “Đoạn đời thơ ấu”… Vậy mà cuốn “Những ngày tháng năm” này buồn hơn, buồn đến mức câm lặng ngậm ngùi, không thèm hét nữa, chỉ chôn chặt trong lòng sự căm ghét chiến tranh, thương cho đất nước, dân tộc, con người bị tai ách chiến tranh, khiến “nhân dân đều bại”.
Như đã nói, Hà cặm cụi ghi chép, dựng lại cuộc sống, con người, số phận, những bi kịch chiến tranh bằng thứ văn phi hư cấu. Đọc xong, tự mình cảm nhận và đánh giá, bởi văn Hà không hề có ý ép buộc ai.
Đó là chuyện xảy ra ở làng Hạ Lội gần quê Hà, tháng 8.1968. Ông Trần Đình Trọng chủ tịch xã kể việc được cấp trên giao làm đường mới cho xe ô tô thoát túi bom. Ông nhớ lại hôm 13.8 sau khi hứa với cấp trên, “Đầu óc tôi căng thẳng. Nhiệm vụ đã nhận. Nói sao cho bà con nghe. Trước hết phải có khẩu hiểu hành động. Khẩu hiệu thế nào cho lọt tai. Vừa tốc lực đạp xe tôi vừa nghĩ, nghĩ câu này rồi bỏ, nghĩ câu khác. Cuối cùng, tôi ưng nhất với khẩu hiệu “Xe chưa qua nhà không tiếc”. Tôi nhẩm đi nhẩm lại khẩu hiệu trong đầu.
Họp xã, tôi nói tình hình nguy cấp lắm rồi. Vì thế, trên giao cho làng ta một vinh dự, là đêm nay bà con ta phải hy sinh nhà cửa để làm đường cho xe đi vào miền Nam kịp thời.
Bà Đinh Thị Trí giơ tay xin nói, giọng run rẩy: Nhà tôi nhà tre vách đất, tháo đi cũng không góp được mấy, trong nhà không có gì để hiến, tôi có bốn tấm ván để dành đóng hòm, nghe anh Trọng nói vậy, tôi xin được hiến đem đi làm đường, nhờ ai đến lấy giúp chứ sức tôi không đưa đi được”.
Tối ấy cả làng dỡ hết nhà cửa, cả nhà thờ họ, miếu làng để lấy gỗ đá gạch lót đường cho xe đi, chấp nhận ngủ bờ ngủ bụi. Không chỉ màn trời chiếu đất, mà còn là:
“Sáng 14.8, máy bay tìm mục tiêu. Một quả bom rơi vào con mương, nơi mẹ con chị Chung Huấn đang nằm ngủ. Đêm qua, tháo nhà xong, chị Chung Huấn bụng bầu sắp sinh gánh đồ đạc và hai đứa con ra ở tạm con mương ngoài đồng, sát bên sông Già”.
Đó là chuyện chị Thân, lấy chồng là anh Quý, vừa lấy nhau được vài hôm thì anh lên đường, từng năm trôi đi, 1, 2, 3, 5, 7 năm cứ chờ đợi mong ngóng, lúc nào cũng “Không biết khi mô anh Quý về. Không biết khi mô anh Quý về để có con. Nghĩ đến là nước mắt. Năm 1970. Khi giấy báo tử đến nhà, chị Thân không còn tí sức nào trong người nữa. Chị nằm liền ba ngày”.
Chuyện chị Liên chồng đi bộ đội vào Nam, nhà trai tổ chức đám cưới vắng anh. Chị cứ vò võ chờ chồng bảy năm, được cả xã đề cao giỏi việc nước - đảm việc nhà - chung thủy với chồng. “Liên là chiến sĩ thi đua trong đội dân quân tự vệ, bắn súng giỏi, thi bắn súng hội thao luôn đạt giải nhất; tận tụy, hiếu thảo với bố mẹ chồng. Rồi chồng chị trở về. Anh không nhận Liên là vợ, bởi vì cưới vắng mặt anh. Anh lấy người khác. Liên khăn gói về nhà mẹ đẻ. Hết duyên rồi. Sau đó Liên ngậm ngùi làm vợ một ông già đã góa vợ có đàn con nhỏ”.
Chuyện chị Vương, “thấy xung quanh nhiều người nhận tin chồng báo tử, sợ sẽ quá tuổi không sinh con được nữa, sau 6 năm chờ, Vương chấp nhận sự dèm pha của người đời, có con riêng. Thì vừa năm đó chồng Vương về”.
Người kể chốt lại “Tôi chồng hy sinh, khóc. Liên, Vương chồng về cũng khóc”.
Chuyện “Một gia đình ở Khe Sanh” mấy thế hệ người Pháp, thật đau lòng. Nhân vật “tôi” kể những ngày xảy ra cuộc đánh nhau ở Khe Sanh - nơi trước đây được văn nghệ cách mạng ca ngợi thật đẹp thật hùng, chẳng hạn “Khe Sanh năm xưa anh đã về đây/Non sông nơi nơi dâng lên niềm vui/Nghe pháo nổ rền vang trời/
Bao bốt đồn giặc tơi bời” (Bài ca đường 9 chiến thắng, nhạc sĩ Văn Dung). Cả gia đình gắn bó với mảnh đất Khe Sanh, họ là con cháu của người đầu tiên đem cây cà phê đến trồng vùng này, cùng các vị linh mục chăm sóc cả vật chất lẫn linh hồn cho người Bru bản địa, bỗng chốc chiến tranh, gia đình tan nát bởi pháo dập “tơi bời”. Người con còn sống sót kể “Ngày 13.2.1968, bố tôi nghe một tin kinh hoàng: Cha Pierre Poncet và cha Créssonnier bị bắn chết. Ông Linarès, người đi cùng với hai cha, cho biết: cha Pierre Poncet tháp tùng cha Cressonnier tới chỗ các nữ tu ở Phủ Cam đang gặp nguy hiểm để tìm cách cứu họ. Trên đường trở về, đến gần sông thì một loạt súng tiểu liên từ trong bụi rậm nhằm vào các ngài”.
Chuyện “Con tàu hòa bình” kể về vợ chồng ông Rupert Neudeck, từ năm 1979 sáng lập ra Ủy ban Cap Anamur - một con tàu cho Việt Nam, đi cứu những người Việt Nam di tản gặp nguy hiểm trên biển Đông. Biết bao là bi kịch, nước mắt…
Đọc “Những ngày tháng năm” rất mệt, tôi nói thật, nhưng cứ xong rồi thì đọc lại. Khóc. Em gái tôi kể cô ấy đã xem đi xem lại 3 lần, bởi đó là cuốn sách không thể không đọc trong đời.
Không hiểu sao, tôi cứ đinh ninh tin rằng, về sau, nhắc đến văn chương hậu chiến xứ này, người ta nhớ ngay đến cái tên Phan Thúy Hà chứ không phải ai khác.
(Bạn muốn mua những cuốn sách nói trên, cứ liên lạc trực tiếp qua FB Phan Thúy Hà)
Nguyễn Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét