Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện vặt thời đã qua. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện vặt thời đã qua. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

Chuyện dạy học (tiếp)

Trong suốt gần hai chục năm trời, Trường dự bị đại học TP.HCM nổi tiếng là trung tâm luyện thi uy tín, mỗi năm thu hút hàng nghìn học sinh khắp cả miền Nam. Có những năm, vào thời điểm hoàng kim luyện thi, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Năm phải ra lệnh hạn chế nhận thí sinh vào trường mặc dù nhận vào là có tiền, bởi không đủ chỗ học, ngoài ra giáo viên dồn giờ dạy cho luyện thi nhiều quá nên chểnh mảng nhiệm vụ chính. Đồng tiền kiếm từ luyện thi giúp cho đời sống giáo viên khá hơn nhưng hầu như chả mấy ai nghĩ rằng chính họ đã góp phần làm hư hỏng hệ đại học. Tôi có anh bạn là giảng viên Trường đại học Tổng hợp, bên ấy cũng căng ra luyện thi, anh kể có ngày dạy luyện thi tới 10 tiết, sáng 4, chiều 4, tối 2, chỉ kịp nhét miếng cơm vào mồm rồi cuống cuồng lên lớp. Lúc nào cũng thèm ngủ. Sài Gòn những năm đó trong giới giáo viên tồn tại một câu lạc bộ có tên CLB 30 triệu. Ai dạy luyện thi thu nhập 30 triệu đồng/tháng thì đương nhiên được gia nhập CLB này. Đồng tiền khiến nhiều thầy cô bị say, say tiền. Một thầy ở trường tôi cũng vậy, thầy Nguyễn Loan dạy toán, dạy nhiều đến mức bị kiệt sức, suy nhược cơ thể, vào bệnh viện được vài hôm thì mất.

Nhưng không phải thầy cô nào cũng khá lên nhờ luyện thi đại học. Chủ yếu là các môn phục vụ khối thi A và B thôi (toán, lý, hóa, sinh) chứ đám thầy cô văn sử địa hầu hết đói dài. Tôi cố trụ mãi nhưng học sinh luyện thi môn văn cứ ngày càng ít dần.

Túng đói quá thì phải… liều. Nhà trường cho phép công đoàn tổ chức giữ xe cho sinh viên. Đám giáo viên đói được ưu tiên tham gia. Thật trớ trêu, cứ đầu giờ thì tay cục phấn, tay cầm nắm thẻ xe, ghi số, thu tiền, học sinh vừa dắt xe vào vừa “em chào thầy cô ạ”. Lúc đầu còn chào lại mà chả giấu hết sự ngượng ngùng, về sau chúng hắn biết ý không chào nữa, lặng lẽ đưa tiền, tiền dư cũng không lấy lại. Chuông reo, rửa tay, vuốt vội bộ quần áo, lại trèo lên bục giảng ê a tác phẩm này hay, tác phẩm kia tốt. Có hôm còn dạy cả tác phẩm Sống mòn của Nam Cao, có hôm dạy bài nghề cao quý của người thầy. Nhìn vào mắt trong veo của sinh viên, biết chúng nghĩ gì. Trớ trêu vô cùng.

Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2017

Chuyện dạy học

Xứ mình nhiều ngày lễ, trong đó có lễ riêng của nhà giáo, những người làm nghề dạy học. Cứ tới tháng 11 tây hằng năm là không chỉ thầy lẫn trò mà dư luận xã hội cũng lao xao chộn rộn về ngày 20.11, ngày Nhà giáo Việt Nam.

Thú thực, chả bao giờ tôi nghĩ mình sẽ theo nghề dạy học, còn gọi là sư phạm, thế mà lại đứng bục giảng những 16 năm trời. Hồi nhỏ tôi rắn mày rắn mặt, chỉ thích đi bộ đội hoặc làm lính biên phòng, chứ không thích làm thầy giáo. Người định một đằng, trời quyết một nẻo, chả thể nào tính được.

Tôi học khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp tháng 12.1976. Khóa tôi là khóa bản lề chiến tranh và hòa bình. Tháng 3.1977 từ quê ở Hải Phòng tôi nhận được thư thông báo của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp kêu lên Hà Nội nhận quyết định phân công công tác. Quyết định do Thứ trưởng Hoàng Xuân Tùy ký, cầm trên tay mà cứ run run. Kể từ nay, mình chính thức bước vào cuộc mưu sinh. Cảm giác thật khó tả. Nhưng không phải được vào nhà xuất bản, cơ quan báo chí hoặc viện này viện nọ. Quyết định ghi rõ điều động tôi vào nhận công tác tại Trường dự bị đại học Tiền Giang đặt tại TP.HCM. Làm nghề dạy học.

Tôi chính thức vào nghề giáo học từ ngày 25.4.1977, dạy một mạch đến năm 1993, khi đang là Tổ trưởng Bộ môn Xã hội (văn sử địa) thì… đói quá, xin nghỉ đi làm thuê cho một công ty nước ngoài. Đồng lương giáo học khi ấy không đủ nuôi thân chứ nói gì nuôi cả vợ con.

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

Chuyện vặt thời đã qua: Chuyện ăn độn

Mới chỉ vài chục năm thôi nhưng chuyện này đã xưa như cổ tích. Bọn trẻ bây giờ, ngay cả những đứa sống ở vùng nông thôn nghèo cũng chả biết ăn độn là gì. Chúng không hình dung ăn mà lại độn, đâm ra thắc mắc độn thế nào, độn cái gì, sao lại phải độn… Tôi có đứa cháu họ học lớp lá, có lần nó xin ông trẻ ơi cho cháu ăn độn với, thì ra nghe người nhớn nói, nó tưởng độn là món ngon, kiểu như gà quay, khoai tây chiên, pizza chẳng hạn. Cũng như có lần nó đòi về hưu, nó bảo ông bà về hưu sao không cho cháu theo, cháu thích về hưu lắm, thích hơn ở thành phố. Trẻ con ngây thơ thật dễ thương.

Miền Bắc ăn độn trường kỳ, suốt từ sau năm 1954 cho mãi tới đầu thập niên 90, còn dân miền Nam trước năm 1975 theo như ông bạn đồng nghiệp tôi người TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) kể thì không phải ăn độn, lúa gạo ê hề, độn điếc gì, chỉ từ sau 1975 mới được nếm món đặc sản vĩ đại ấy.

Bu tôi sinh tôi sau chiến thắng Điện Biên Phủ gần 1 năm. Sau này tôi nhớn rồi, thỉnh thoảng bu tôi ôn nghèo kể khổ, bảo “chỉ ông Thông là khổ nhất, chả biết thịt sữa là gì, tinh dững ăn độn”. Bu tôi kể lúc tôi còn bú nhưng bu chả có sữa, bởi ăn toàn những khoai, sắn, củ rau muống thì lấy đâu ra sữa. Tôi còi cọc đèo đẹn, nuôi mãi mới lớn cũng một phần do tôi là sản phẩm của thời đại thiếu thốn “dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá/mỗi hòn than mẩu sắt cân ngô”, học đến lớp 10 mà chỉ loắt choắt như đứa lớp 7-8 hệ 12 bây giờ.

Chủ Nhật, 14 tháng 5, 2017

Chuyện vặt thời đã qua: Chuyện rửa chân đi ngủ

Thời hoa niên của những đứa trẻ nghèo trôi qua trong nghèo đói và chiến tranh thường đầy những chuyện buồn. Có những lúc muốn rứt phắt ra, không nhớ nữa, không cho nó nằm trong đầu nữa mà chả được. Có lẽ chúng đã ăn vào từng tế bào não mất rồi. Nhiều bận nông nổi nghĩ, phải chi có thứ chất tẩy rửa cực mạnh, hơn cả bột giặt Tide hoặc Omo, nhét vào đầu một cục to tướng, cho nó ăn mòn đi, nhạt đi, chỉ còn những chuyện vui, hoặc thế vào đó là niềm hồ hởi hướng tới tương lai thì hay biết mấy. May thay, ý nghĩ dại khờ đó không thành sự thật.

Trong những kỳ trước, tôi đã kể về mấy chuyện vặt vãnh mà tụi trẻ con nông thôn miền Bắc thập niên 60 - 70 vẫn thực hiện hằng ngày như rút rơm từ cây rơm vào bếp, lau bóng đèn và châm dầu, chơi đánh trận giả… Cái vui xen lẫn cái buồn, giờ nhiều đứa trong đám ấy tóc muối tiêu hoặc ngả bạc mỗi khi nhắc lại vẫn bâng khuâng. Có ối thứ việc chả ra việc nhưng vẫn cứ nhớ, kể cả “việc” đi rửa chân trước khi ngủ, soi muỗi trong mùng, rửa rau lợn, canh ruộng dưa…

Sau này, có lần tôi bảo tụi nhỏ nhà tôi, rằng mấy đứa bay lãng phí, giày dép đế còn dày nguyên, quai chắc nình nịch thế kia mà bỏ, phí quá đi mất. Chúng cười, bố chỉ được cái nết trùm sò, cứ như bố thì người ta làm ra bán cho ai. Nào chúng có biết bố chúng suốt cả tuổi thơ chỉ ao ước xỏ một đôi dép nhựa tái sinh lành lặn, bởi thường đi chân không suốt ngày, ngay cả mùa đông rét mướt.

Thứ Ba, 4 tháng 4, 2017

Chuyện vặt thời đã qua (kỳ 3)

Hai lần trước tôi đã lẩn mẩn nhớ và biên lại những chuyện vặt còn nằm trong ký ức, gắn liền với tuổi thơ vất vả thiếu thốn nghèo đói của mình. Những việc vặt như châm dầu vào đèn, lau bóng đèn, rút rơm đem vào bếp để nấu ăn hoặc đưa ra chuồng cho trâu ăn đêm… thời ấy đứa trẻ nông thôn nào chả phải làm. Thời ấy tức là những năm 60 ở miền Bắc, còn nông thôn là vùng duyên hải Hải Phòng.

Tiếng là gần thành phố nhưng huyện Kiến Thụy quê tôi hồi đó nghèo lắm. Nghèo đến mức người nhớn lẫn trẻ con chỉ lo làm lụng chứ chả bao giờ dám nghĩ đến chuyện ăn mặc tươm tất một tí kéo nhau ra phố chơi. Mà nếu đi thì cũng cuốc bộ chứ chẳng có xe đạp. Vậy nên chỉ quanh quẩn làng trên xóm dưới, đồng xa đồng gần. Sáng (hoặc chiều) đến trường học, thì giờ còn lại thì đập nương, tát nước, nhổ mạ, cắt rạ, tỉa đỗ, đánh nhậy thuốc lào, đập lúa, phơi rơm, chăn trâu, đi câu, đánh dậm, băm rau lợn, quét sân, học bài… ôi giời trăm thứ việc. Thế mà vẫn còn thời gian để đánh trận giả.

Giờ nghĩ lại thấy hồi đó gớm thật. Mấy trò đánh khăng, đánh đáo, bật tường, nhảy chồng nụ chồng hoa, thả đỉa ba ba chơi mãi cũng chán. Chỉ có đánh trận giả là khoái nhất. Không biết ông bà nào nghĩ ra cái trò này, nhưng có lẽ tại dân mình máu, thích đánh nhau, thích chiến tranh nên trẻ con từ bé tí đã ham đánh trận. Đánh nhau sớm cho nó quen trận mạc, để 17 tuổi còn đi bộ đội, đi B, cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù. Đứa nào cũng được dạy như vậy.

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Chuyện vặt thời đã qua (phần 2)

Bây giờ, ở cả thành thị lẫn nông thôn người ta đã quen với sinh hoạt ăn uống 3 bữa. Sáng bữa phụ, trưa và chiều tối bữa chính. Nhưng hồi tôi còn bé, cho đến hết những năm 60, ở nhà quê (miền Bắc, vùng Hải Phòng quê tôi) chỉ ăn 2 bữa thôi. Bữa sáng vào lúc 5 rưỡi hoặc 6 giờ, bữa chiều tầm 12 giờ rưỡi hoặc 1 giờ chiều.

Buổi sáng ngủ dậy, đánh răng rửa mặt xong, cả nhà xúm vào mâm cơm. Thường thì mùa hè cũng như mùa đông, thày bu tôi hoặc chị tôi dậy từ sớm tờ mờ nấu nướng. Sau này tôi hỏi thày, sao mình không bắt chước dân thành phố ăn vào tầm trưa cho nó văn minh, đỡ vất vả, thày tôi cười, họ có thứ để ăn sáng nên họ mới ăn vào buổi trưa, còn nông dân sáng mà bụng đói thì chả hơi sức đâu cày bừa, gồng gánh. Phải chắc dạ mới làm được việc nặng. Nghe cũng có lý.

Người lớn sau buổi làm đồng sáng, trẻ con sau buổi học sáng thì lại được ăn bữa cơm chiều. Rồi lại ra đồng, lại đi học. Tới tối, nếu nhà nào có củ khoai củ sắn luộc, hay còn chút cơm nguội (mà cơm nguội thì rất hiếm) chia nhau lót dạ, chờ đến bữa sáng mai. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, vị nào dùng chữ “lót dạ” đầu tiên quả là giỏi. Ăn mà có cảm giác chưa hề ăn, lót vào trong dạ một lớp dinh dưỡng mỏng mòng mong, suốt đêm cứ có cảm giác chống chếnh thế nào ấy. Lại khổ nỗi, khoai lang là chúa gây cồn cào nhãi ruột, nhưng không nuốt nó chắc sẽ cồn cào hơn. Những nhà vườn rộng trồng gài thêm củ dong riềng, mình tinh, sắn dây, lâu lâu bới một rổ luộc ăn cũng đỡ phết. Thích nhất có hôm chị tôi hoặc bu tôi chịu khó làm món khoai khô bung nấu nhừ với đỗ đen, thêm tí đường vàng vào, cả nhà cứ vui như tết.

Buổi tối không phải lo chuyện ăn uống, không mất thời gian vào bữa ăn nên tuy đói, bù lại có nhiều thời gian làm việc khác. Mà quả thật sao hồi ấy lắm việc vặt vãnh thế. Chuyện lau bóng đèn dầu hỏa tôi đã kể rồi, nay kể tiếp những điều vớ vẩn khác.

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Chuyện vặt thời đã qua

Ngày thường, bận bịu với việc này việc nọ, ít khi ngẫm nghĩ, nhớ lại những gì đã đi qua cuộc đời mình. Người ta thường sống bằng hiện tại và tương lai chứ chả mấy ai nặng về quá khứ. Nhưng ngày tết, sau những hối hả tất bật là lúc quỹ thời gian dôi dư khá nhiều, lòng bỗng chùng lại, bất giác hoài cổ, bao nhiêu thứ lần lượt hiện về.

Tôi thuộc vào đám trẻ ra đời giữa thập niên 50 ở miền Bắc, rặt nông thôn. Làng quê đồng bằng Bắc Bộ khi ấy nghèo, bờ tre gốc rạ, nhà đất mái gianh. Cha mẹ làm ruộng nên con cái cũng bám lấy đồng đất mà sống. Nông phu ngay từ hồi còn bé tí. Thạo đủ mọi việc cày bừa cấy hái, đập nương, nhổ mạ, tát nước, bắt sâu, chăn trâu, gánh gồng, đan rổ đan rá, câu cá, đánh dậm, biết bơi biết trèo... Chả cần học khóa kỹ năng sống nào, tất cả do cuộc mưu sinh buộc mình phải có, phải thích nghi để tồn tại. Khi có chiến tranh, lại bắt chước nhau, truyền cho nhau cách bện nùn rơm, đan mũ rơm, tập băng bó vết thương, biết lắng nghe tiếng máy bay xa gần để chọn thời điểm nhảy xuống hầm, thậm chí còn phân biệt được trên trời đâu là máy bay thần sấm, con ma, thập tự quân... Tinh những điều những việc lớn hơn so với tuổi, nhiều lúc cảm thấy sao mà nặng nề vất vả, oán thày bu không sinh mình làm đứa trẻ con thành phố, nhưng càng về sau càng thấm thía, không có trường nào dạy ta tốt bằng trường đời.

Những điều ấy, việc ấy, ở nông thôn có nơi đến nay vẫn còn dù xã hội đã trải qua hơn nửa thế kỷ. Công việc chăn trâu, làm ruộng, gánh gồng… cũng thỉnh thoảng được ai đó viết lại, nhắc lại, nên tôi chả biên ra đây nữa. Trong ký ức tôi còn đượm những thứ, những điều chả ra đâu vào đâu, vụn vặt, linh tinh, thậm chí nhố nhăng, vớ vẩn, vậy mà tua lại vẫn thấy bâng khuâng. Dường như chúng chỉ vừa thoáng qua, mình vừa mới làm xong phút chốc. Đó là thứ sinh hoạt hằng ngày, là việc mà không phải việc, chỉ xảy ra vào thời ấy. Tôi kể ra đây: lau bóng đèn, rút rơm, soi muỗi, rửa chân, đốt cơm, đánh trận giả, rửa rau lợn…