Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn kỷ niệm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kỷ niệm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2019

Kỷ niệm ấu thơ

Hồi mình be bé, cách nay nửa thế kỷ chứ có ít đâu, đứa nào trong đám trẻ con thế hệ mình, cụ thể là làng mình cũng thuộc bài hát "Đi chợ xuân".

Hồi ấy làm gì có siêu thị, chỉ có chợ làng, chợ huyện. Chợ tết vui lắm, bu cho đi theo, thể nào cũng được bu mua cho cái bánh rán nhân đỗ xanh đường đỏ. Mình chỉ ngó xem tranh tết, câu đối, hoa giấy, con tò he nặn bằng bột, và nhất là những hàng bán pháo tép pháo đùng, nhưng không bao giờ dám nài bu mua, bởi biết bu không có tiền. 

Chợ tết chợ xuân chỉ họp tới trưa 30 tháng chạp. Buổi sáng đông vui, ồn ào tấp nập là thế, sau này được đọc Truyện Kiều mình thấy đúng như cụ Nguyễn Tiên Điền tả "ngựa xe như nước, áo quần như nêm", kẻ mua người bán tíu tít, màu sắc xanh đỏ tím vàng rực rỡ một góc trời, nhưng chỉ tới gần trưa, thoắt khác hẳn. Ngẫm ra ở trên đời có những cuộc biến cải khôn lường diễn ra ngay trước mắt. Sực nghĩ rằng không có gì buồn, tang thương, đìu hiu như chợ xuân lúc vãn.

Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2018

Chữ ký

Nửa tuần nay, phải công nhận các chàng trai cầu thủ U.23 và ông thầy Park ký tên mệt nghỉ. Ký lên cờ, lên áo, ký lên quả bóng, ký vào sổ tay... Ai cũng muốn có chút kỷ niệm chữ ký của những con người nổi tiếng ấy.

Tôi rất trân trọng cả người ký lẫn người xin chữ ký. Đó là nét văn hóa khá mới mẻ trong xã hội hiện đại.

Nhưng tôi không cố chen lấn để xin cho được chữ ký của ai đó, những yếu nhân, văn nghệ sĩ, ca sĩ, cầu thủ, đại gia, nói chung là những người nổi tiếng. Tôi tự biết, mình quý trọng họ là được rồi, bởi trên thực tế thấy những chữ ký lưu niệm, kỷ niệm bị đối xử hắt hủi, lãng quên, thật tội.

Tôi mê sách, thường la cà ở những tiệm bán sách cũ đường Trần Nhân Tôn (quận 5), hoặc Nguyễn Thị Minh Khai (quận 1), không ít lần mua được những cuốn sách hay, giá rẻ, trang đầu có chữ ký trân trọng của tác giả ký tặng người này người nọ. Sách quý như thế mà trôi nổi lưu lạc, cũng có thể chủ nhân cuốn sách gặp cảnh khốn khó tang thương đến nỗi phải bán cả sách mà sống qua ngày, nếu vậy thì thật đáng thương, dễ thông cảm. Nhưng cũng có thể họ cũng chả tha thiết gì với kỷ niệm của người khác. Những cuốn sách ấy, sau khi mua về, bao giờ tôi cũng lấy kéo cắt cẩn thận tờ có chữ ký bỏ đi. Mình dễ bị hiểu nhầm là mượn sách của người khác nhưng không trả. Nhưng cái chính là giữ gìn cái tiếng cho ai đó từng là chủ nhân cuốn sách.

Hồi đầu năm ngoái, chị Ái Vân về nước giới thiệu cuốn hồi ký của chị, tôi được chị ký tặng một bản. Đối với tôi, chữ ký ấy có giá trị ngang cuốn sách. Mỗi lần mở ra đọc lại, ngắm nghía chữ ký chán chê rồi mới lật từng trang, thấy thú vị vô cùng. Cuốn Hồ Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, có chữ ký của cụ Khánh, rồi bộ sách Bạn Văn, Ký Ức Vụn của nhà văn Nguyễn Quang Lập, cuốn nào bọ Lập cũng đề tặng rất cẩn thận nắn nót, nét ký thật đậm phía dưới, những cuốn ấy, tôi bảo các con "đứa nào cho mượn làm mất mấy cuốn này của bố, phải đền 1 tỉ", chúng lắc đầu lè lưỡi.

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

Phải biết quý từng đồng xu ngân sách

Nước ta còn nghèo, quá nghèo là đằng khác. Đừng ai đó tự sướng đem so với mấy nước Zimbabwe, Etiopia, Congo... bên xứ châu Phi để mà hãnh diện, cãi rằng nghèo đâu mà nghèo. Muốn biết giàu hay nghèo, sướng hay khổ, cứ lặn lội một buổi về vài vùng nông thôn thì rõ ngay.

Nghèo nhưng dân vẫn phải chịu làm lụng và nộp thuế, đóng góp vào ngân sách. Nghèo nên khai thác tối đa tài nguyên để góp vào ngân sách. Nghèo nên phải ban hành nhiều sắc thuế để mở nhiều kênh thu tiền cho ngân sách. Ơ, thế cái gì cũng ngân sách, vậy ngân sách để làm gỉ gì gì?

Làm nhiều việc. Nuôi quân đội, mua sắm vũ khí. Nuôi bộ máy cầm quyền (quân dân chính đảng, đoàn đội hội, nam phụ lão ấu...). Làm dự trữ quốc gia. Đầu tư phát triển sản xuất các mặt. Chăm lo cho những đối tượng chính sách. Xóa đói giảm nghèo... Ôi giời, trăm cái miệng vẩu chực chờ bầu vú ngân sách. Để nó đói, nó cắn một phát lại chả đứt núm, hết bú.

Đồng tiền đã eo hẹp thế, thì phải biết tính chi li, dè sẻn từng xu. Đừng có vung tay quá trán, vén tay áo đốt nhà táng giấy cháy đùng đùng. Đừng ném tiền qua cửa sổ ra vẻ đại gia. Đừng sấn sổ chi tiền vào những việc nhì nhằng.

Xứ này họp hành quá lắm. Hết nay họp lại mai họp. Họp triền miên. Đủ thứ lễ lạt, kỷ niệm. Nhập vào cũng họp, chi tiền. Tách ra lại họp, chi tiền. Thành lập cũng chi tiền, tan vỡ cũng chi tiền. Được 5 năm, bày trò kỷ niệm, xài tiền. Qua 10 năm, kỷ niệm, tiền. Trung ương cắn vú kiểu trung ương, địa phương cắn vú kiểu địa phương. Vú bà Nữ oa cũng chả đủ sữa cho các vị.

Hôm 9.4, Đảng ủy Khối các cơ quan trung ương long trọng làm lễ kỷ niệm 10 năm thành lập (ảnh). Kèn trống tưng bừng. Đông hơn hội. Đủ mặt văn võ bá quan, kể từ ông chủ tịch nước, đến dự. Vỗ tay nồng nhiệt. Một cơ quan của đoàn thể (đảng) mà tổ chức khủng thế này, tiền ở đâu ra. Ai cũng hiểu làm gì có chuyện cả khách lẫn chủ tự bỏ tiền túi ra làm lễ, dự lễ. Phải từ ngân sách. Chắc chắn rất nhiều, tiền tỉ chứ không ít. Trang trí, kèn trống, hoa hoét, hội trường, quà cáp, ăn uống, phong bao phong bì, tiền xăng dầu cho hàng trăm đại biểu chạy xe công tới làm long trọng viên... bà Nữ oa chi tất.

Điều vô cùng bí mật là dân chúng không ai biết những khoản tiền chi cho những họp hành kiểu này là bao nhiêu, cho đoàn thể, cơ quan tổ chức ngậm vú ngân sách là bao nhiêu. Nó thuộc diện tối mật, tuyệt mật.

Cứ kiểu cắn vú như vậy, chỉ có bầu vú to như ông mặt trời thì mới đủ cho các vị ấy bú. Cháu vẽ ông mặt trời, chòm mây ở cạnh ông, cho các "ông" bú.

Nguyễn Thông

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Chuyện vặt thời đã qua (phần 2)

Bây giờ, ở cả thành thị lẫn nông thôn người ta đã quen với sinh hoạt ăn uống 3 bữa. Sáng bữa phụ, trưa và chiều tối bữa chính. Nhưng hồi tôi còn bé, cho đến hết những năm 60, ở nhà quê (miền Bắc, vùng Hải Phòng quê tôi) chỉ ăn 2 bữa thôi. Bữa sáng vào lúc 5 rưỡi hoặc 6 giờ, bữa chiều tầm 12 giờ rưỡi hoặc 1 giờ chiều.

Buổi sáng ngủ dậy, đánh răng rửa mặt xong, cả nhà xúm vào mâm cơm. Thường thì mùa hè cũng như mùa đông, thày bu tôi hoặc chị tôi dậy từ sớm tờ mờ nấu nướng. Sau này tôi hỏi thày, sao mình không bắt chước dân thành phố ăn vào tầm trưa cho nó văn minh, đỡ vất vả, thày tôi cười, họ có thứ để ăn sáng nên họ mới ăn vào buổi trưa, còn nông dân sáng mà bụng đói thì chả hơi sức đâu cày bừa, gồng gánh. Phải chắc dạ mới làm được việc nặng. Nghe cũng có lý.

Người lớn sau buổi làm đồng sáng, trẻ con sau buổi học sáng thì lại được ăn bữa cơm chiều. Rồi lại ra đồng, lại đi học. Tới tối, nếu nhà nào có củ khoai củ sắn luộc, hay còn chút cơm nguội (mà cơm nguội thì rất hiếm) chia nhau lót dạ, chờ đến bữa sáng mai. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, vị nào dùng chữ “lót dạ” đầu tiên quả là giỏi. Ăn mà có cảm giác chưa hề ăn, lót vào trong dạ một lớp dinh dưỡng mỏng mòng mong, suốt đêm cứ có cảm giác chống chếnh thế nào ấy. Lại khổ nỗi, khoai lang là chúa gây cồn cào nhãi ruột, nhưng không nuốt nó chắc sẽ cồn cào hơn. Những nhà vườn rộng trồng gài thêm củ dong riềng, mình tinh, sắn dây, lâu lâu bới một rổ luộc ăn cũng đỡ phết. Thích nhất có hôm chị tôi hoặc bu tôi chịu khó làm món khoai khô bung nấu nhừ với đỗ đen, thêm tí đường vàng vào, cả nhà cứ vui như tết.

Buổi tối không phải lo chuyện ăn uống, không mất thời gian vào bữa ăn nên tuy đói, bù lại có nhiều thời gian làm việc khác. Mà quả thật sao hồi ấy lắm việc vặt vãnh thế. Chuyện lau bóng đèn dầu hỏa tôi đã kể rồi, nay kể tiếp những điều vớ vẩn khác.

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016

Nhớ K17

Nhớ K17 hơn cả thuốc lào.

Nhớ ai như nhớ thuốc lào,

Đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên.

Nhớ thuốc lào, qua câu thơ trên đây, trở thành “kinh điển” của nỗi nhớ.

Với tôi cũng như nhiều đồng môn, nỗi nhớ dành cho K17 còn hơn cả nhớ thuốc lào.

K17 chúng tôi vừa tề tựu ở Hà Nội kỷ niệm 40 năm ra trường và 60 năm thành lập khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội.


Hôm đó, ngày 17.11.2016, trời thật đẹp. Không nắng, không lạnh. K17 chúng tôi ăn ở tử tế nên được trời thương.

Các thầy bước qua tuổi 80 nhưng nhiều thầy đã từng dạy chúng tôi vẫn khỏe mạnh và đến dự ngày vui của đám học trò cũ hiện thời đã thành ông, thành bà. Các thầy, các cô, trong lời phát biểu ấm nồng với học trò cũ, không chỉ chia vui mà còn ân cần chỉ bảo cho chúng tôi những bài học làm người cho đến khi về cõi vĩnh hằng.

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2016

Chuyện nước mắm (phần 4 - cuối)

Bây giờ, cứ vừa bước chân vào quầy thực phẩm ở các siêu thị thì đập vào mắt là “trên giời dưới mắm”. Đủ loại thương hiệu, đủ hạng cao cấp bình dân, muốn loại nào cũng có. Nhiều loại mắm, cứ theo nhà sản xuất quảng cáo, có cảm giác chỉ cần rưới vào cơm là vét sạch nồi, thay cho thịt cá rau quả. Mắm thế mới là mắm. Nhưng tôi chả bao giờ tin, bởi tôi đã dành đam mê mắm của mình cho mắm cáy mắm tôm mà bu tôi làm từ khi xưa rồi.

Thế mà có những lúc “đói mắm”, thèm mắm chết đi được. Nói đâu xa, thời sinh viên là đói mắm nhất. Không còn mắm cáy như hồi ở nhà, đám sinh viên gốc nông dân rặt như tôi chỉ trông chờ vào nồi nước mắm của nhà ăn tập thể.

Ai đã học các khoa Văn, Sử của Trường đại học Tổng hợp Hà Nội những năm 1973 – 1976 ở ký túc xá Mễ Trì (huyện Từ Liêm) chắc còn nhớ cái nhà ăn phía sau nhà C2. Nó bị bom Mỹ xơi gọn đúng một nửa, nửa phần còn lại y nguyên. Cũng giống như cái nhà D6 cao 5 tầng bên khu Trường đại học Ngoại ngữ, lối sang bên ĐH Tổng hợp, bom laser chặt hẳn một nửa, cứ như ai lấy con dao rựa khổng lồ sắc lẻm chặt một phát đứt đôi. Đó là kết quả của những đợt máy bay Mỹ tháng 12.1972 đánh vào khu phát sóng của Đài tiếng nói Việt Nam đặt tại Mễ Trì, nếu từ nhà thờ Phùng Khoang vào sâu còn khoảng nửa cây số. Suốt nhiều năm liền thời hậu chiến, do khó khăn, người ta vẫn giữ lại, sử dụng cái nhà ăn cũng như tòa nhà D6 một nửa ấy để làm việc, coi như chả có gì vừa xảy ra. Từng ấy năm đại học, ngày nào đám sinh viên chúng tôi cũng phải ngắm những chứng tích chiến tranh, sản phẩm của khoa học quân sự này. Nhiều năm sau, khi cả đám đã tốt nghiệp, tỏa đi khắp nơi, thỉnh thoảng tôi hỏi thăm mấy đứa được giữ lại khoa, hỏi cái nhà ăn có còn không, chúng bảo còn. Đến khi “hàn gắn vết thương chiến tranh”, nhất là vào thời kỳ đô thị hóa, tấc đất tấc vàng, người ta đã đập bỏ đi. Tôi rất tiếc, giá cái nửa nhà D6 đó mà giữ lại làm kỷ niệm thời chiến thì tuyệt biết bao nhiêu. Tôi và người bạn gái học bên trường Ngoại ngữ cũng đã nhiều lần trú mưa ở hàng hiên của nó, mải trò chuyện tán nhau đến khi trời tạnh nhìn lên giời thì trăng đã lặn từ bao giờ.

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Chuyện nước mắm (phần 3)

Không có mắm không phải bởi vì dân không có mắm. Bác nhà thơ Phạm Tiến Duật dưới âm ti mà nghe được câu này chắc gật đầu công nhận. Thôi thì hàng hóa hiếm hoi, bao nhiêu của ngon vật lạ nhà nước thu nắm hết, mắm chai chỉ dành cho cán bộ và dân thành thị, nên nông dân đành tự cấp tự túc như thuở kháng chiến. Chả cần mắm chai Cát Hải loại 3, những nhà nghèo ở quê, nghèo mấy đi chăng nữa, luôn có vại mắm cáy hoặc mắm còng. Nhà nào khá giả, dư dật hơn thì thêm những hũ mắm tôm, mắm tép. Tất cả đều tự làm, đúng tinh thần tự lực cánh sinh. Sau này, năm 1966, khi cụ Hồ ban cho thế nhân câu nói nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì dân gian cũng lập tức biến tấu ngay thành “Không có gì quý hơn độc lập tự lo”. Trông vào nhà nước có mà rã họng.

Cần phân biệt cái vại với cái chum. Cùng làm bằng đất sét nung già, gọi là sành, nhưng cái vại thì nhỏ và thẳng, cao cỡ hơn 55-60 phân, đường kính 40-45 phân, đựng mắm hoặc để muối dưa cải, nén cà… Còn chum có cái lớn cái nhỏ, lưng cong, đít chum và miệng chum thắt lại, giữa phình to ra. Có chum to đến mức đổ vào đó vài tạ thóc, hoặc đựng nước mưa ăn cả tuần. Chum là một thứ tài sản không phải nhà nông dân nào cũng có. Thày bu tôi, suốt mấy chục năm làm ruộng, chỉ sắm được 2 cái chum đựng thóc, cất kỹ trong buồng. Thóc phơi thật nỏ, đổ vào chum để cả năm chả sao. Lại nhớ hồi tôi ở nhà tập thể tại quận 5 Sài Gòn, dạo năm 1980 trở về sau hay bị cúp nước bèn xuống phố sành sứ đầu đường Nguyễn Chí Thanh mua cái chum 200 lít để chứa. Mấy thầy trò khệ nệ khênh lên tận tầng 5. Đến khi chuyển nhà năm 2000 không dùng nữa, cho chả ai lấy, bỏ thì thương vương thì tội, không hơi sức đâu đem xuống đất, bèn bỏ ngoài hành lang, viết chữ rõ to dán vào: “Chum tốt, ai lấy cũng được, miễn phí”. Thế mà mấy tháng giời mới có người khuân đi. Có lẽ đối với tôi đấy là ví dụ rõ nhất về mức sống đi lên.

Để làm mắm, dân quê tôi chỉ dùng vại sành. Bu tôi xuống mạn Bàng La, Đồ Sơn (Hải Phòng) mua cáy mua còng. Con cáy thuộc họ cua nhưng chỉ to hơn 2 đốt ngón tay, sống trong bãi ven biển, chân nó nhiều lông mịn nên dính đầy đất, rửa sạch bọn này mệt lắm, rất tốn nước. Bọn còng thì nhỏ hơn nhưng sạch, có 2 cái còng to màu đỏ, nhiều khi còng cái (còng lớn) còn to hơn cả thân nó. Người ta chỉ làm mắm cáy mắm còng mà không làm mắm rốc, mắm rạm bởi 2 con rạm rốc này sống ở nước ngọt, tanh lắm, chỉ để nấu chín, không ăn sống được.

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016

Chuyện nước mắm (phần 1)

Bây giờ tự dưng lôi chuyện mắm miếc ra dễ bị thiên hạ mắng là ăn theo, cơ hội. Nhưng quả thật ý định viết về mắm của tôi chả dính dáng gì đến cái kết luận bậy bạ thạch tín (arsenic) trong nước mắm mà Vinastas công bố, nó đang bốc mùi, không phải mùi mắm mà là mùi tiền. Kệ, đường ai nấy đi.

Quê tôi huyện Kiến Thụy vùng duyên hải Hải Phòng nhưng nhà tôi tụt hẳn vào trong đất liền chứ không gần biển. Từ nhà theo đường chim bay tới biển phải gần chục cây số, đi lòng vòng theo mấy đường liên xã thì dài hơn, khoảng mười sáu mười bảy cây. Chính vì vậy, nhà chỉ cách biển Đồ Sơn có chừng ấy nhưng mãi ngoài 20 tuổi tôi mới được thò chân xuống biển. Hồi những năm 60-70 sự đi lại khó khăn, xe đạp chả có, chủ yếu lội bộ, vả lại việc đồng áng làm cả ngày đêm không bao giờ hết, ai mà nghĩ đến chuyện đi chơi tắm biển bao giờ.

Không biết biển nhưng biết mắm. Từ bé tí. Bu tôi là người đàn bà tháo vát, giỏi giang. Có nhẽ một phần thương người chồng vướng chút chữ nghĩa, bạch diện thư sinh, vụng về việc nhà nông nên bu tôi gánh tất. Hồi con gái bu ra Phòng làm công nhân thảm len, khi về quê lấy chồng rồi thì chỉ làm ruộng. Nhưng ruộng đất khó nuôi người, bu tôi tranh thủ buôn bán kiếm đồng ra đồng vào. Có bà bạn ở mạn Bàng La - Đồ Sơn rủ đi buôn mắm, bà bảo không giàu nhưng sống được, thế là dính nghề. Tôi nhớn lên trong sự buôn mắm của bu tôi. Sau này nhà nước không cho buôn bán tư nhân nữa, cấm tiệt, bởi làm ăn cá thể không phù hợp với con đường lớn đi lên chủ nghĩa xã hội, tư thương là buôn gian bán lận, tất cả phải quy vào thương nghiệp quốc doanh, vả lại đã vào hợp tác xã nông nghiệp việc đồng áng quá bận nên nghề “thương nghiệp mắm tư nhân” của bu tôi đành dẹp. 

Về sau, những lúc nông nhàn, thỉnh thoảng bu tôi vẫn xuống chơi với bà Tuất, bà bạn dưới Bàng La. Bà cũng lên nhà tôi. Mấy chị em tôi rất quý bà. Bà đẹp phúc hậu, chuyên vấn khăn mỏ quạ, răng đen nhánh, hầu như lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu. Một trong những người con của bà là anh Quang Mên. Thời ấy có thể ví anh Mên là thi sĩ duy nhất của huyện Kiến Thụy, anh công tác ở Phòng Văn hóa huyện, hay làm thơ, nhiều bài viết về quê hương rất tình cảm, thường được đọc trên đài truyền thanh huyện. Tôi nhớ anh có bài thơ viết về núi Đối và sông Đa Độ sơn thủy hữu tình, thắng cảnh của huyện, có câu “Ta lại về đây núi Đối ơi/Sông xanh như ngọc mến yêu người/Những chiếc thuyền câu như chiếc lá/Về đâu xa tít tận chân trời”. Cứ nhớ đến anh Mên có cái bớt nhỏ trên thái dương lại nhớ ngay đến bài thơ ấy, lại nhớ bu tôi, bà Tuất, nhớ những ngày đã qua man mác buồn vui.

Bu tôi buôn mắm cũng đơn giản, một chiếc đòn gánh, đôi quang mây, hai chiếc sọt dày hoặc thúng. Sáng sớm bu dậy quang thúng lội bộ xuống Bàng La, ra bờ biển mua cáy, còng, tôm tép, cá... đem về rửa sạch, ướp muối; hoặc có khi mua hẳn nước mắm, mắm cá, mắm tôm, mắm tép người ta đã làm sẵn, đem về bán tại chợ huyện hoặc các chợ trong vùng. Cứ đi bộ mỗi ngày mấy chục cây số, đòn gánh trên vai, quang thúng hai bên, quần áo lúc nào cũng ám mùi mắm, vậy mà bu tôi nuôi được cả nhà, ông chồng vụng về cày cấy, đám con nhỏ lít nhít 4 đứa trong những năm đói kém, khốn khó. Gánh mắm giúp bu tôi còn dành dụm được ít tiền mua vài sào đất để trồng rau dưa, thuốc lào, sau bị hợp tác xã công hữu hóa chiếm mất. Chút đỉnh lãi còn lại để trang trải cho con cái đi học, bù vào phần thiếu hụt buổi mới nhập hợp tác. Không có gánh mắm đó, chẳng biết đời chúng tôi sẽ đi đến đâu. (còn tiếp)

Nguyễn Thông

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015

Chim cu

     Nhà tôi từ trung tâm Q.5 (Sài Gòn) chuyển về nơi đang ở (H.Bình Chánh) đến nay gần 15 năm, chuyển nhà đúng vào ngày 24.12.2000. Hôm ấy chiều Noel, Thiên Chúa giáng sinh, còn vợ chồng con cái lo lắng tất bật. Đêm Noel, khi người ta ăn thịt ngỗng, thì mình lo sắp xếp nhà cửa đến gần sáng, đếch được ngủ.

     Về nơi ở mới có nhiều cái lạ. Sướng nhất là không phải gói ghém tầm mắt trong 4 bức tường hộp xi măng. Công viên sau nhà tôi, nho nhỏ nhưng như cái sở thú. Vài con đường bê tông loanh quanh, sẵn mấy cây phượng, bàng, bằng lăng, tôi trồng thêm cây xoài, cây mít, cây trứng cá. Chúng đều còi cọc bởi đất mùn phía dưới bị công ty xây dựng hồi trước nó bới đi hết, đổ vào đó tinh dững xà bần, sỏi đá vụn. Nhưng bù lại, thảo ít thì thú vật, chim chóc khá nhiều.

     Không kể đám gà đám chó do mấy nhà hàng xóm láng giềng nuôi, thả ra công viên, đây là nơi tụ hội của bầy chim. Chúng về từng đàn, nhặt nhạnh sâu bọ, thức ăn. Nhà tôi và nhà ông hải quân đánh tàu Maddox hằng ngày rải cơm nguội, thóc, có khi cả gạo ra cho chúng xơi. Quen thói, hôm nào chúng kéo ào về mà chưa thấy có sẵn cơm gạo là cứ ồn cả lên, inh ỏi phát khiếp, làm như mình phải có trách nhiệm với sự no đói của chúng. Mình có phải đảng đâu. Nhiều nhất là sẻ, từng đàn vài chục con. Lũ này rất tinh, chỉ kén thóc,

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Vậy mà đã 30 năm

Chiều nay, như mọi năm, mình dọn lại cái tủ sách. Gớm, bụi gì mà bụi khiếp. Dĩ vãng bị phủ bởi hàng tỉ hạt bụi. Lấy ra đập đập vài nhát thì lịch sử phát lộ. Thế mới biết chả có chi ngăn được dòng chảy thời gian. Kèn cựa, tranh giành, thoán đoạt, đố kị, tức tối... nhau để làm gì, có chống được thời gian không? Tự bảo chính mình: Cứ sống như mình muốn, nhưng hãy sống chân thực, hiền lành.
Lẩn mẩn giở xấp giấy và mấy cuốn sổ cũ kỹ. Giật mình. Quá nhiều ký ức. Chen trong đó là trang viết của Trương Nam Hương. Đã 30 năm. Ngày ấy Hương rất hiền lành, cặp kính cận lúc nào cũng ngơ ngác (giờ nghe nói Hương vẫn hiền lành). Hương làm thơ từ hồi ấy, những bài viết xong bao giờ cũng cho mình xem. Cùng lớp với Hương còn có Nguyễn Quốc Chánh. Chánh cũng làm thơ. Cũng đưa mình xem những bài thơ đầu đời. Lúc ấy mình không hình dung ra được cả hai Hương và Chánh sau này đều thành những nhà thơ nổi tiếng, tuy nhiên mỗi người đi theo một lối riêng. Mình quý mến cả hai, một phần vì họ là những học trò đặc biệt trong đời dạy học của mình (trước Hương 5 năm còn có một chị học trò khác- người mình từng hạ bút cho điểm 9 duy nhất trong đời dạy học về một bài văn phân tích nhân vật Thúy Kiều- sau này là một nhân vật-blogger nổi tiếng, mình sẽ viết về chị ấy sau, nếu chị ấy không phản đối).
Hồi Hương còn làm trưởng văn phòng đại diện báo An ninh thế giới, hai cơ quan gần nhau, thỉnh thoảng mình có qua Hương chơi, thầy trò-anh em trò chuyện thân tình. Hương sống có nghĩa có tình, giờ đây giở lại những dòng Hương viết 30 năm trước thấy con người ấy thật thủy chung, nhất quán.
Có những thứ trên đời như cơn gió thoảng. Nhưng cũng rất nhiều thứ, tưởng chả là gì, như trang giấy này, vậy mà nếu ai đánh đổi bạc vàng chưa chắc mình đã đổi.
Giờ tóc đã ngả sương sớm sương chiều, xem lại kỷ niệm 30 năm trước cứ ngỡ đang xanh trở lại.

19.1.2013
Nguyễn Thông

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Dành cho người thân trong gia đình: Một vài bức ảnh cũ

Đây là một số tấm ảnh cũ về người thân trong gia đình mà mình còn lưu giữ. Có thể là bản duy nhất, vì vậy đưa lên trang nhà để ai đó thích thì tải về làm kỷ niệm.

 Bu (mẹ) mình. Ảnh chụp tháng 9 năm 1977, đến nay đã gần 36 năm, cũng chẳng còn nhớ ai chụp. Mẹ đội khăn đen mỏ quạ, không đi dép. Phía sau mẹ là một góc nhà dưới, tường đất lở lói, mái rạ; có cây trứng gà (lê ki ma) thầy trồng nhưng hình như đất cằn nên ít khi có quả; sân gạch Bát Tràng cũ, góc sân có viên gạch ba banh để dễ bước lên xuống.