Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn bao cấp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bao cấp. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

Vàng, lại nói về vàng

Ở xứ này, bất cứ thứ gì đều có thể làm con người phát điên. Chẳng hạn vàng.

Nói chi thì nói, vàng chỉ là hàng hóa, dù có được xem như loại hàng đặc biệt đi chăng nữa, nó vẫn là hàng hóa. Chính những nhà quản lý kinh tế với tư duy quản trị quá lỗi thời đã biến vàng từ hàng hóa vật chất thành thứ phi vật chất, từ giá trị thực thành giá trị ảo.

Do không thực thi kinh tế thị trường đúng nghĩa (mặc dù nhà cai trị luôn kêu gào các nước công nhận nền kinh tế xứ này là kinh tế thị trường) nên có những việc nhẽ ra chỉ cần xử lý rất đơn giản thì các ông bà ấy vẽ ra đủ trò, đủ cách vớ vẩn nhố nhăng, không theo bất cứ quy tắc nào. Thích là nhích. Chính sách đi từ thất bại này đến thất bại khác, còn dân thì lãnh đủ. Vàng là ví dụ cụ thể.

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2021

Tàn dư của bao cấp

Nhìn các ông bà ấy mỗi người một chiếc cặp đen giống hệt nhau, ít nhất cũng phải 1.587 chiếc, chắc chắn giá không hề rẻ, tôi lại nghĩ tới cái thời bao cấp khốn nạn đã bị chôn vùi.

Hơn 1 nghìn rưởi vị dự đại hội, chủ yếu để nghe và nhất trí, thế thì trang bị cặp làm gì, ngoài giải quyết được mỗi khâu oai, vênh váo.

Đừng bảo rằng trang bị thống nhất như thế nhằm đảm bảo an ninh. Tinh dững các ngài với nhau, thành phần lý lịch 3 đời bắt cua, đều là hồng phúc của dân tộc, được chọn lựa kỹ lưỡng cả, nếu tự xách cặp riêng vào sẽ biến thành thế lực thù địch hay sao.

Nếu không sắm sửa bằng ngân sách, bằng tiền thuế của dân, các vị có mua cho mỗi người một ông giời tôi cũng kệ, chả thèm ý kiến ý cò. Cặp cho đại biểu ở đại hội con tại tỉnh nghèo Quảng Bình đã đạt giá 3 triệu rưởi, vậy cặp lần này không phải dạng vừa đâu.

Chỉ béo thằng bán cặp. Đang không đẩy được nghìn rưởi cái cặp, quá sướng.

Nguyễn Thông


Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

Thành ngữ ‘Mặt nghệt như mất sổ gạo’

Chưa cần liếc gì thêm, chỉ đọc mấy chữ đó, nhiều người nghĩ ngay tới thời bao cấp, ngẫm lại đến giờ đầu óc còn khiếp; nhớ mở rộng chút nữa là thời tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tiến mãi không tới nơi; thu hẹp một chút thì là cuộc sống kinh tế và xã hội miền Nam sau biến cố “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm Ất Mão, 1975 tháng 4.

Các cụ xưa thường dạy “ôn cố tri tân”, nghĩa là nhắc lại, xem lại (ôn) cái cũ để biết (tri) cái mới. Thú thực, có những thứ cũ, quên đi càng tốt, quên nhanh, quên được bao nhiêu hay bấy nhiêu, bởi mỗi lần gợi nhớ, mỗi lần ôn lại chỉ tổ rùng mình. Không ít lần, tôi tự hỏi tại sao bản thân và nhiều người như mình, thế hệ mình lại sống được trong cái vũng lầy lịch sử ấy, mà không bị chết bởi đói, bởi khốn cùng, bế tắc, tuyệt vọng, liều mình như biết bao người. Nếu chiến tranh bom đạn chết chóc từng giây xô đẩy người ta vào cùng đường đã đi một nhẽ, đằng này ngay cả khi hòa bình, cuộc sống tự do, đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh… nó vẫn vênh váo ngự trị. Nó được gọi bằng cái tên “thời bao cấp”, trong chứa đựng đủ cả nghèo đói, bất công, khốn khổ, lầm than. Và cha đẻ của nó, không phải ai khác, chính là người cộng sản, bên thắng cuộc.

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2019

Chả biết đâu mà lần với các bố

Ông Nhân tổng đốc Sài thành bị báo chí chê cười khi bàn sâu chuyện có con. Không phải là làm thế nào để có con (hì hì, nhạy cảm lắm) mà nên có bao nhiêu con. Thực ra thì chuyện sinh đẻ có kế hoạch, nó cũng giống như chính sách thời bao cấp, có chung nguồn gốc sinh ra là... đảng và chính phủ.

Để cấm đẻ nhiều, nhà nước tuyên bố mỗi cặp vợ chồng chỉ được đẻ tối đa 2 con, nếu nhõn 1 con càng tốt. Họ gọi là kế hoạch hóa gia đình. Họ bắt chước Trung cộng, nhưng khổ nỗi dân Tàu vốn đã quá đông, nhiều quá quản không xuể (dù đất Tàu rất rộng), nên hạn chế đẻ đái. Xứ ta có mấy chục triệu, cứ nhắm mắt bắt chước, cấm tiệt. Từ đó sinh ra 3 khoan (khoan yêu nhau, khoan cưới, khoan có con), hoặc đứa nào thậm thụt đi lại, đánh chũm chọe với nhau thì bị kết tội hủ hóa (tội này nặng chỉ sau tội phản quốc), tuyên truyền đặt vòng cho cả bà già, v.v.. Dân gian còn bắt chước bài hát "Quảng Bình quê ta ơi" của cụ nhạc sĩ Hoàng Vân, gặp nhau là rống lên "Khoan khoan hò khoan", rồi chế "Cứ đồng ý đi. Khoan khoan hò khoan. Anh bảo bu rồi. Khoan khoan hò khoan. Em thèm con không. Khoan khoan hò khoan"... Nói chung sinh đẻ rất nghiêm, giao hẳn đại tướng phụ trách, không khác gì đánh trận, dân đen vi phạm vụ sinh đẻ có kế hoạch sẽ bị buộc thôi việc, cán bộ thì kiểm điểm, hạ lương, cắt thi đua. Tuy nhiên, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì kệ chính sách của chính ông ấy, đẻ sòn luôn 3 đứa lại chả bị làm sao. Để bây giờ có anh cu út Triết làm cán bộ to ngoài miền Trung, dân gian gọi đùa là thằng cu Thêm. Thế mới quái.

Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2017

Vĩnh biệt sổ hộ khẩu

Cuối cùng thì cuốn sổ hộ khẩu, một tàn tích dai dẳng của lề lối quản lý hành chính lạc hậu, của chế độ bao cấp lỗi thời, đã chính thức bị thải bỏ. Nó đã làm xong nhiệm vụ của nó, dù thứ nhiệm vụ ấy chẳng lấy gì làm vinh quang cho lắm.

Bỏ sổ hộ khẩu, đó là tin vui, nhưng là thứ “vui sao nước mắt lại trào”. Nghị quyết số 112/NQ-CP được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ngày 30.10.2017 về đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến quản lý dân cư thuộc chức năng của Bộ Công an, đã quyết định nhiều điều liên quan đến hộ khẩu. Đáng lưu ý nhất là: Bãi bỏ hình thức quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng Sổ hộ khẩu và thay thế bằng hình thức quản lý thông qua mã số định danh cá nhân; Bãi bỏ kết quả giải quyết thủ tục là Sổ hộ khẩu và thay thế bằng hình thức cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Với nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và chính phủ đương nhiệm đã thể hiện thái độ dứt khoát đối với một thứ công cụ hết tác dụng, thậm chí phản tác dụng, cực kỳ vô lý trong đời sống xã hội hiện nay. Ân huệ cuối cùng mà Thủ tướng ban phát cho sổ hộ khẩu là nó được phép sống trọn nốt tháng 10, chỉ chính thức bị đào thải khi cuộc sống xã hội Việt Nam bước vào ngày đầu tiên của tháng 11. Sau này, các niên biểu, các nhà chép sử sẽ dõng dạc nhấn cây bút với nét mực thật đậm mà biên rằng: Kể từ ngày 1.11.2017, sổ hộ khẩu chính thức hết thời, không còn tác oai tác quái như trước nữa.

Thứ Hai, 2 tháng 10, 2017

Chuyện đồng hồ (kỳ 2)

Ở cuối bài trước, tôi có nhắc đến cái sân gạch Bát Tràng mà tôi thường xem bóng nắng để biết giờ, nhân tiện kể tí ti về cải cái ruộng đất (bởi gạch lát sân là gạch được cậy lên từ sân nhà địa chủ, thày tôi mua lại từ người được chia). Có bạn đọc xong bảo sao bác không kể thêm về cuộc cách mạng long trời lở đất ấy đi. Thực thà mà rằng khi xảy ra đấu tố, đánh địa chủ phú nông, tôi mới 1-2 tuổi, nào đã biết gì, chỉ nghe thày bu và anh chị kể lại thôi. Nhưng nghe cũng khiếp. Làng tôi nghèo lắm, thế mà đội cải cách vẫn tìm ra được đủ 5% địa chủ, có người chỉ sở hữu vài mẫu ruộng, lôi họ ra đấu tố tơi bời, sau đó còn bịt mắt điệu một ông lên pháp trường ở đầu núi Trà Phương bắn. Chị tôi kể theo người nhớn đi xem xử bắn về mấy đêm không ngủ được vì sợ. Mà nào ông ấy có địa chủ địa chiếc ghê gớm gì cho cam, chỉ nhà ngói sân gạch, có mấy mẫu ruộng tự canh tác chứ chả dám thuê tá điền. Nhưng cách mạng bắt chết thì phải chết, không có tội cũng thành có tội. Ông ấy chết rồi, ruộng đất bị tịch thu hết, gia đình ly tán, con cái tha hương, cơ nghiệp nhà cửa tan hoang bị chia cho mấy hộ bần nông, khi còn trẻ con tôi hay vào khu nhà đó chơi, trông thật tang thương tiêu điều. Sau này có dịp đọc một số tài liệu nói về cuộc cải cách điền địa ở miền Nam thời ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, cụ thể là chính quyền Sài Gòn chủ trương hạn điền, thu hẹp ruộng đất của địa chủ, nhưng bằng biện pháp trưng mua, thỏa thuận trả tiền cho điền chủ, nếu nhiều ruộng bị mua quá thì phần còn lại trả bằng trái phiếu, không có địa chủ nào biệt thiệt thòi, bị xâm phạm thân thể, mới thấy hai cuộc cải cách ruộng đất khác nhau một trời một vực. Nhưng thôi, điều ấy tôi sẽ biên lại sau, còn bây giờ quay lại chuyện đồng hồ.

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Chuyện đồng hồ

Bây giờ chả mấy ai khoe đồng hồ dù có những cái xịn giá lên tới mấy trăm nghìn đô Mỹ, quy ra tiền xứ ta phải vài tỉ bạc. Bởi nó đã hết thời.

Đồng hồ chủ yếu chỉ để coi giờ giấc, nhất là ở cái thời con người còn nhờ vào bóng nắng, tiếng gà gáy, tiếng tút tút trên đài phát thanh, thậm chí cả hoa (hoa đồng hồ) để biết thời gian, thì nó là soái ca. Những người đeo đồng hồ, oai phong chả khác gì đại gia thời nay diện xe ô tô Toyota Avalon hoặc Lexus 570. Nhưng cái gì cũng có thời, khó tránh khỏi bị rẻ rúng, thất sủng. Bây giờ trong mỗi chiếc điện thoại di động đều hiện đủ cả giây phút giờ ngày tháng, thậm chí ngày âm ngày dương, nạp sẵn lịch cho vài trăm năm, vậy thì sắm đồng hồ làm quái gì, chỉ tổ vướng víu. Các hãng sản xuất đồng hồ, dù nổi tiếng như ở Thụy Sĩ đi chăng nữa, cũng sẽ chết, cũng như đám sản xuất phim ảnh, giấy ảnh, máy ảnh Kodak, Fuji, Orwo, Minolta… bị ngỏm củ tỏi bởi không đọ nổi máy ảnh kỹ thuật số vậy.

Lại nhớ thời còn bé, những năm 60-70 ở miền Bắc, đồng hồ là của hiếm. Thực ra chỉ hiếm sau năm 1954, tức là sau khi chính quyền mới tiếp thu miền Bắc. Đuổi được Pháp thì cũng đồng thời đuổi luôn những tiện nghi, vật dụng của bọn “đế quốc sài lang”. Ô tô, xe đạp, quạt máy, lụa là vải vóc…, chả riêng gì đồng hồ, dính với thực dân phong kiến, với lối sống hưởng lạc, cứ là dẹp cho bằng hết. Ta độc lập tự chủ, tự ta làm lấy mọi thứ, không có thì tạm nhịn. Ấy là nói với dân thôi, chứ cán bộ đã có hàng hóa Liên Xô, Trung Quốc viện trợ.

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

Chuyện vặt thời đã qua: Chuyện ăn độn

Mới chỉ vài chục năm thôi nhưng chuyện này đã xưa như cổ tích. Bọn trẻ bây giờ, ngay cả những đứa sống ở vùng nông thôn nghèo cũng chả biết ăn độn là gì. Chúng không hình dung ăn mà lại độn, đâm ra thắc mắc độn thế nào, độn cái gì, sao lại phải độn… Tôi có đứa cháu họ học lớp lá, có lần nó xin ông trẻ ơi cho cháu ăn độn với, thì ra nghe người nhớn nói, nó tưởng độn là món ngon, kiểu như gà quay, khoai tây chiên, pizza chẳng hạn. Cũng như có lần nó đòi về hưu, nó bảo ông bà về hưu sao không cho cháu theo, cháu thích về hưu lắm, thích hơn ở thành phố. Trẻ con ngây thơ thật dễ thương.

Miền Bắc ăn độn trường kỳ, suốt từ sau năm 1954 cho mãi tới đầu thập niên 90, còn dân miền Nam trước năm 1975 theo như ông bạn đồng nghiệp tôi người TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) kể thì không phải ăn độn, lúa gạo ê hề, độn điếc gì, chỉ từ sau 1975 mới được nếm món đặc sản vĩ đại ấy.

Bu tôi sinh tôi sau chiến thắng Điện Biên Phủ gần 1 năm. Sau này tôi nhớn rồi, thỉnh thoảng bu tôi ôn nghèo kể khổ, bảo “chỉ ông Thông là khổ nhất, chả biết thịt sữa là gì, tinh dững ăn độn”. Bu tôi kể lúc tôi còn bú nhưng bu chả có sữa, bởi ăn toàn những khoai, sắn, củ rau muống thì lấy đâu ra sữa. Tôi còi cọc đèo đẹn, nuôi mãi mới lớn cũng một phần do tôi là sản phẩm của thời đại thiếu thốn “dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá/mỗi hòn than mẩu sắt cân ngô”, học đến lớp 10 mà chỉ loắt choắt như đứa lớp 7-8 hệ 12 bây giờ.

Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Áp giá sàn vé máy bay là cực kỳ vô lý

Dư luận nửa tháng nay xôn xao vụ Cục Hàng không (Bộ Giao thông vận tải) lấy ý kiến cho dự thảo quyết định đối với giá dịch vụ vận chuyển hành khách hạng vé phổ thông trên các đường bay nội địa. Gọi là lấy ý kiến cho có vẻ khách quan, thu nhận trí tuệ tập thể, làm bài bản, “đúng quy trình”… chứ thực ra nội ý của cơ quan quản lý nhà nước có vẻ nghiêng về sự áp giá.

Với ý định can thiệp sâu vào thị trường, vào hoạt động doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước đang làm trái quy luật, cụ thể nhất là Luật Cạnh tranh. Nói như ông Nguyễn Tiến Thỏa - nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), nhà nước rõ ràng không việc gì phải can thiệp vào việc doanh nghiệp như vậy. Nếu cố tình áp giá sàn, chắc chắn là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng không sẽ được lợi. Và đương nhiên, người tiêu dùng sẽ không được tiếp tục sử dụng dịch vụ với giá rẻ hơn như hiện nay.

Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không (mà mở rộng ra là nhà nước) hãy cứ làm nhiệm vụ chăm lo đời sống của dân cho tốt, để dân chúng hài lòng, chứ đừng bấn bíu vào mấy thứ giá vé, đừng sợ giá rẻ quá thì hãng nọ hãng kia sẽ bị lỗ, bị thua thiệt.

Cần biết rằng lỗ hay không là chuyện của doanh nghiệp. Dù công ty nhà nước hay tư nhân, đã chấp nhận kinh tế thị trường, tham gia kinh doanh thì phải tự lo cho sự sống còn của mình. Làm ăn phải chấp nhận sự cạnh tranh. Càng có cạnh tranh, người tiêu dùng càng được hưởng lợi, kể cả về mức giá, về điều kiện được phục vụ và chất lượng phục vụ. Người xưa bảo “khôn sống, mống chết”. Hãng tàu bay dù có bán vé thấp mấy chăng nữa thì cũng đã tính đủ thu bù chi, chả dại đến mức chuyến nào cũng lỗ mà vẫn cố bay. Hãng tàu bay "Tăng Tốc" của nhạc sĩ Hà Dũng bị chết yểu là bằng chứng. Còn nếu doanh nghiệp nào âm mưu cố tình hạ giá để tiến tới độc quyền nâng giá, tự tung tự tác làm thiệt hại khách hàng (kiểu cạnh tranh diệt hãng tàu thủy của cụ Bạch Thái Bưởi xưa kia), lúc ấy nhà nước hãy can thiệp, giở chuyên chính với nó.

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

Dẹp, dẹp, dẹp

Nói tóm lại, Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không (mà mở rộng ra là nhà nước) cứ làm nhiệm vụ chăm lo dân cho tốt, để dân hài lòng, chứ đừng bấn bíu vào mấy thứ giá vé, đừng sợ giá rẻ quá thì hãng nọ hãng kia sẽ bị lỗ. 

Mẹ kiếp, lỗ hay không là chuyện của nó. Dù công ty nhà nước hay tư nhân, nó đã chấp nhận kinh tế thị trường, tham gia kinh doanh thì phải tự lo cho sự sống còn của mình. Đứa nào tham đứa ấy sẽ chết, người ta tẩy chay không thèm đi. Nó có bán vé thấp mấy chăng nữa thì cũng đã tính đủ thu bù chi, chả dại đến mức chuyến nào cũng lỗ mà vẫn cố bay. Hãng tàu bay "Tăng Tốc" của ông nhạc sĩ bị chết yểu là bằng chứng. Còn nếu đứa nào âm mưu cố tình hạ giá để tiến tới độc quyền nâng giá (kiểu Pháp diệt Bạch Thái Bưởi xưa kia), lúc ấy hãy giở chuyên chính với nó.

Làm quản lý nhà nước thì cần biết rằng nhu cầu đi lại là không thể dẹp. Khi hành khách cần đi thì giá vé cao hay thấp vẫn phải đi. Đáng nhẽ phải hỗ trợ những hãng bán vé giá thấp, rẻ để dân chúng được cơ hội "biết ơn đảng và chính phủ", đằng này chỉ nhăm nhăm bảo vệ thằng nhà giàu, thằng say tiền móc túi dân là sao.

Cũng đừng lôi bọn đường sắt vào đây. Hơn nửa thế kỷ nay, nó ì ạch không bằng đường sắt thời Pháp thì cho nó chết luôn. Chạy chậm, dịch vụ quá kém, vé cao ngất trời, ai thèm đi, lại cứ bắt dân chịu mãi.
Quản lý nhà nước mà quản lý như thế à? Bỏ ngay cái thói bao cấp đó đi cho tôi nhờ. Suốt mấy chục năm nó hành dân chúng sống dở chết dở mà chưa đủ hay sao.

Nguyễn Thông đã ký 
(nhưng không thèm chuyển thủ tướng. Đời thuở nhà ai, thứ gì cũng đá vào chân thủ tướng. Thủ tướng là ông thần vạn năng chắc).

Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Chuyện đi buôn

Dường như trong đời, ai cũng có, ít nhất một lần, đi buôn. Cái câu “phi thương bất phú” của các cụ xưa nó ngấm vào não. Kiếm tiền bằng đi buôn chả có gì xấu, miễn không lừa đảo, gian dối cướp giật của người khác.

Có một thời cả nước đi buôn. Những năm sau 1975 công cuộc cả nước “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" ngày càng tệ hại. Đói vàng mắt. Rách như tổ đỉa. Dân Bắc còn đỡ, từ khổ chuyển sang khổ nên vẫn chịu được, quen rồi, tôi luyện thành thép, thép đã tôi như thế rồi. Nhưng dân Nam thì bi kịch, một bước xuống vực. Đang no đủ, sung sướng, thậm chí thừa thãi, đánh ùm một phát chui tọt xuống hố. Ban đầu còn ngơ ngác, hồ nghi, nghĩ cũng chả mấy bữa mà lại như xưa, ngờ đâu càng ngày càng tăm tối. Chịu riết không nổi, âm thầm đi vượt biên. Anh nào nhát sợ làm mồi cá mập thì ở lại và… đi buôn.

Tôi vào Nam đầu năm 1977. Làm nghề dạy học, mô phạm, chúa ghét dân buôn. Hồi nhỏ đã được giáo dục rằng chỉ có thương nghiệp quốc doanh là đàng hoàng, chứ buôn bán xấu xa lắm, không làm ra của cải cho xã hội, chỉ lừa đảo… Buôn gian bán lận. Cán bộ tuyên truyền bảo chúng tôi phải nhìn người buôn bán tư nhân như kẻ thù địch, phải luôn chuẩn bị tư thế sẵn sàng lao vào cấu xé nó cho hả giận. Đã có nhà nước thương nghiệp, mậu dịch quốc doanh rồi, mà nó còn buôn bán, tức là cố tình phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2017

Xe công đặt không đúng chỗ

Vụ xe công lãng phí đang gây xôn xao dư luận. Người dân bất bình bởi tất cả những thứ gì của công đều được mua sắm bằng tiền thuế do họ đóng góp, sử dụng lãng phí có khác gì chà đạp lên mồ hôi, công sức dân.

Lâu nay nhà cầm quyền xứ này luôn tự ý bày đặt ra những quy định và bắt mọi người phải thừa nhận, tuân theo. Họ lúc nào cũng cho rằng mình là đúng, kể cả cái sai cũng... đúng. Ai phản đối thì bị quy chụp vi phạm pháp luật. Pháp luật trong tay họ trở thành thứ công cụ riêng để trấn áp những người không đồng tình, ủng hộ. Ở xứ này, pháp luật không phải công lý, không phải để vì mọi người. Nó chỉ phục vụ cho thiểu số.

Chính vì vậy, cái quyết định về xe công số 32/2015/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 4.8.2015, theo tôi, cũng là sự áp đặt chủ quan như vậy. Hãy đọc điều 3, chương 2: "Các chức danh được sử dụng thường xuyên một xe ô tô, kể cả sau khi đã nghỉ công tác, không quy định mức giá cụ thể:
1. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
2. Chủ tịch nước.
3. Thủ tướng Chính phủ.
4. Chủ tịch Quốc hội".
bạn sẽ thấy cực kỳ vô lý.

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Chuyện đổi tiền (4)

Tháng 4.1978. Tôi vào Sài Gòn đã tròn 1 năm. Một năm ròng với biết bao đổi thay khi chính thức bước vào đời. Hồi còn sinh viên, mọi thứ thật đơn giản, trong trẻo, ngay cả sự vất vả, đói khổ, thiếu thốn cũng được nhìn nhận rất nhẹ nhõm. Giờ thì thay đổi tận gốc. Chả khác gì cuộc vật lộn, bãi bể nương dâu. Lúc này sống được đã khó, chống chọi lại đủ thứ tai ách bủa vây lại càng khó hơn.

Đến khi tôi gõ những chữ này, thời gian đã trôi qua gần 40 năm rồi, nên trí nhớ về ngày tháng cứ chập chờn, nhớ nhớ quên quên. Người ta bảo “cái gì không biết thì tra gu gồ”, nhưng tôi nhớ được đến đâu kể đến đấy, kệ gu gồ. Láng máng là cuối tháng 4.1978, một buổi tối, chú Dương Cao Thăng, Chủ tịch Công đoàn Trường dự bị đại học Tiền Giang (91 Nguyễn Chí Thanh, P.9, Q.5, TP.HCM) gọi đám anh em giáo viên trẻ miền Bắc chúng tôi lại, bảo rằng sáng mai có mặt để theo sự phân công của nhà trường. Cũng đoán được phần nào cái gì rồi bởi tin đồn đổi tiền đã rộ lên từ mấy hôm. Phường tôi ở là trọng điểm người Hoa tại Sài Gòn, họ đang chộn rộn, hoang mang lắm. Suốt mấy tối liền, tivi ra rả lên tiếng tin đổi tiền là đồn nhảm, là bọn phản động chống phá cách mạng, là bọn bành trướng Bắc Kinh xúi giục, là đừng có tin... Hết lãnh đạo phường đến quận đến thành phố lên tivi trấn an người dân, hãy tin chính quyền, đừng mắc mưu kẻ địch. Đám công chức, giáo viên chúng tôi thực ra chả quan tâm lắm bởi làm gì có tiền mà đổi. Lương 64 đồng, tính theo tỷ giá tiền bắc tiền nam 10 đồng ăn 8 đồng nên chỉ còn hơn 51 đồng/tháng. Đúng thời điểm đói, ăn độn, thiếu thực phẩm, đói vàng cả mắt nên có đồng nào chén sạch đồng ấy, lấy đâu tiền dành dụm mà đổi. Tuy vậy, cả đêm khó ngủ, chờ đến sáng hôm sau.

Mới sáng sớm, loa phường đã oang oang thông báo lệnh đổi tiền. Đổi ở đâu, mỗi người được đổi bao nhiêu, tiền quy đổi như thế nào... Số cán bộ giáo viên trường tôi được đổi tại trụ sở ủy ban phường trên đường Nguyễn Tri Phương, đối diện trường cấp 3 Trần Khai Nguyên. Chú Thăng dặn dò, mỗi người được đổi 100 đồng, một hộ gia đình được đổi tối đa 500 đồng, nếu có nhiều hơn phải làm bản khai cụ thể, khai tiền đó ở đâu ra, sẽ được gửi vào ngân hàng nhà nước, sau này xác minh nếu là tiền chính đáng thì được rút ra dần, còn không rõ ràng thì bị tịch thu.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Chuyện muối rang

Có một món ăn bây giờ chỉ còn trong ký ức. Nó không khi nào xuất hiện nữa, mặc dù từng tồn tại cả chục năm. Đó là muối rang.

Một thời, có những món dân dã, đậm chất nông thôn, như ngọn khoai lang luộc, mắm cáy, khoai khô bung, canh rau tập tàng (nhiều loại rau hoang dã) vốn là món chính trong bữa ăn của nông dân, đến khi cuộc sống phát triển, khá giả hơn thì người ta bỏ, quên nó đi. Rồi một ngày nào đó, bất chợt mấy anh nhà giàu no xôi chán chè, chán ngán thịt cá giò chả bỗng thòm thèm tuổi thơ, thì nó hiện về các bàn ăn sang trọng, thành món đặc sản. Tôi từng thấy những món như vậy ngay trong cả khách sạn 5 sao, thậm chí đĩa rau muống xào tỏi, ngọn bí luộc, bát canh hoa bí giá đến cả chục đô. Người ta ăn, người ta nhấm nháp quá khứ, tấm tắc khen ngon. Tôi thầm nghĩ, có cho ông cũng thèm vào, còn ngán đến tận cổ đây này, bởi đã ăn quá nhiều, suốt cả tuổi hoa niên nghèo khó.

Nhưng món muối rang thì chả ai nhớ, chả ai thèm. Nó gợi một thời khủng khiếp, thiếu thốn, đói kém, thèm thịt thèm cá, cái bụng lúc nào cũng lép kèm kẹp. Cơm đã chả đủ no, tuổi thiếu niên thanh niên “nam thực như hổ” vậy mà cơm độn chỉ chưa đầy 3 lưng bát, thức ăn nhì nhằng rau cỏ trong vườn, con tép con tôm đánh dậm được ngoài đồng. Ở nhà với thày bu thì còn có chút đỉnh linh tinh vậy, chứ đi học trọ xa nhà, khẩu phần kém hẳn, cơm cũng ít đi, còn thức ăn chủ yếu chỉ 2 món: cá khô và muối rang.

Anh Uy anh trai tôi suốt 3 năm học cấp 3 (1966 – 1969), trường huyện Kiến Thụy (cả huyện chỉ có một trường cấp 3, riêng huyện Thủy Nguyên chả hiểu sao ngoài trường Thủy Nguyên có thêm trường Thủy Sơn nữa), máy bay Mỹ đánh rát quá, sơ tán về xã Tân Phong gần biển. Lão ở trọ trên đó, mỗi tuần một lần đạp xe thiếu nhi Liên Xô về nhà lấy gạo và cá khô. Chục con cá khô, mỗi con bằng 2 ngón tay ăn cả tuần, chả bõ bèn gì. Anh tôi bèn chế món muối rang. Mà chả riêng ông Uy, ông nào cũng biết làm món này, chẳng ai giữ bản quyền. Nguyên liệu gồm 3 thứ: muối (đương nhiên), hành, và mỡ. Hiếm nhất là mỡ. Hồi ấy chưa có dầu thực vật, chất béo chỉ trông vào con lợn. Nếu HTX mua bán giết lợn, chen mua được ký mỡ không khác gì hoàn thành kế hoạch nửa năm. Rán tất lên thành mỡ nước ăn dần. Mùa hè nóng nên mỡ lỏng, đổ vào chai, mùa đông lạnh thì nó đông trắng như tuyết trong cạp lồng. Mỗi lần nấu, chỉ nhón ra chút ít, gọi là chạy qua hàng mỡ, cốt sao bát canh nổi lên vài cái váng cho hấp dẫn, món xào có tí mỡ trông bóng bẩy bắt mắt. Muối thì chỉ có loại muối cục, trông như tinh thể kim cương, to bằng hạt đỗ xanh, màu hơi vàng, rất ít khi có muối trắng.

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2016

Chuyện nước mắm (phần 4 - cuối)

Bây giờ, cứ vừa bước chân vào quầy thực phẩm ở các siêu thị thì đập vào mắt là “trên giời dưới mắm”. Đủ loại thương hiệu, đủ hạng cao cấp bình dân, muốn loại nào cũng có. Nhiều loại mắm, cứ theo nhà sản xuất quảng cáo, có cảm giác chỉ cần rưới vào cơm là vét sạch nồi, thay cho thịt cá rau quả. Mắm thế mới là mắm. Nhưng tôi chả bao giờ tin, bởi tôi đã dành đam mê mắm của mình cho mắm cáy mắm tôm mà bu tôi làm từ khi xưa rồi.

Thế mà có những lúc “đói mắm”, thèm mắm chết đi được. Nói đâu xa, thời sinh viên là đói mắm nhất. Không còn mắm cáy như hồi ở nhà, đám sinh viên gốc nông dân rặt như tôi chỉ trông chờ vào nồi nước mắm của nhà ăn tập thể.

Ai đã học các khoa Văn, Sử của Trường đại học Tổng hợp Hà Nội những năm 1973 – 1976 ở ký túc xá Mễ Trì (huyện Từ Liêm) chắc còn nhớ cái nhà ăn phía sau nhà C2. Nó bị bom Mỹ xơi gọn đúng một nửa, nửa phần còn lại y nguyên. Cũng giống như cái nhà D6 cao 5 tầng bên khu Trường đại học Ngoại ngữ, lối sang bên ĐH Tổng hợp, bom laser chặt hẳn một nửa, cứ như ai lấy con dao rựa khổng lồ sắc lẻm chặt một phát đứt đôi. Đó là kết quả của những đợt máy bay Mỹ tháng 12.1972 đánh vào khu phát sóng của Đài tiếng nói Việt Nam đặt tại Mễ Trì, nếu từ nhà thờ Phùng Khoang vào sâu còn khoảng nửa cây số. Suốt nhiều năm liền thời hậu chiến, do khó khăn, người ta vẫn giữ lại, sử dụng cái nhà ăn cũng như tòa nhà D6 một nửa ấy để làm việc, coi như chả có gì vừa xảy ra. Từng ấy năm đại học, ngày nào đám sinh viên chúng tôi cũng phải ngắm những chứng tích chiến tranh, sản phẩm của khoa học quân sự này. Nhiều năm sau, khi cả đám đã tốt nghiệp, tỏa đi khắp nơi, thỉnh thoảng tôi hỏi thăm mấy đứa được giữ lại khoa, hỏi cái nhà ăn có còn không, chúng bảo còn. Đến khi “hàn gắn vết thương chiến tranh”, nhất là vào thời kỳ đô thị hóa, tấc đất tấc vàng, người ta đã đập bỏ đi. Tôi rất tiếc, giá cái nửa nhà D6 đó mà giữ lại làm kỷ niệm thời chiến thì tuyệt biết bao nhiêu. Tôi và người bạn gái học bên trường Ngoại ngữ cũng đã nhiều lần trú mưa ở hàng hiên của nó, mải trò chuyện tán nhau đến khi trời tạnh nhìn lên giời thì trăng đã lặn từ bao giờ.

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Chuyện nước mắm (phần 3)

Không có mắm không phải bởi vì dân không có mắm. Bác nhà thơ Phạm Tiến Duật dưới âm ti mà nghe được câu này chắc gật đầu công nhận. Thôi thì hàng hóa hiếm hoi, bao nhiêu của ngon vật lạ nhà nước thu nắm hết, mắm chai chỉ dành cho cán bộ và dân thành thị, nên nông dân đành tự cấp tự túc như thuở kháng chiến. Chả cần mắm chai Cát Hải loại 3, những nhà nghèo ở quê, nghèo mấy đi chăng nữa, luôn có vại mắm cáy hoặc mắm còng. Nhà nào khá giả, dư dật hơn thì thêm những hũ mắm tôm, mắm tép. Tất cả đều tự làm, đúng tinh thần tự lực cánh sinh. Sau này, năm 1966, khi cụ Hồ ban cho thế nhân câu nói nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì dân gian cũng lập tức biến tấu ngay thành “Không có gì quý hơn độc lập tự lo”. Trông vào nhà nước có mà rã họng.

Cần phân biệt cái vại với cái chum. Cùng làm bằng đất sét nung già, gọi là sành, nhưng cái vại thì nhỏ và thẳng, cao cỡ hơn 55-60 phân, đường kính 40-45 phân, đựng mắm hoặc để muối dưa cải, nén cà… Còn chum có cái lớn cái nhỏ, lưng cong, đít chum và miệng chum thắt lại, giữa phình to ra. Có chum to đến mức đổ vào đó vài tạ thóc, hoặc đựng nước mưa ăn cả tuần. Chum là một thứ tài sản không phải nhà nông dân nào cũng có. Thày bu tôi, suốt mấy chục năm làm ruộng, chỉ sắm được 2 cái chum đựng thóc, cất kỹ trong buồng. Thóc phơi thật nỏ, đổ vào chum để cả năm chả sao. Lại nhớ hồi tôi ở nhà tập thể tại quận 5 Sài Gòn, dạo năm 1980 trở về sau hay bị cúp nước bèn xuống phố sành sứ đầu đường Nguyễn Chí Thanh mua cái chum 200 lít để chứa. Mấy thầy trò khệ nệ khênh lên tận tầng 5. Đến khi chuyển nhà năm 2000 không dùng nữa, cho chả ai lấy, bỏ thì thương vương thì tội, không hơi sức đâu đem xuống đất, bèn bỏ ngoài hành lang, viết chữ rõ to dán vào: “Chum tốt, ai lấy cũng được, miễn phí”. Thế mà mấy tháng giời mới có người khuân đi. Có lẽ đối với tôi đấy là ví dụ rõ nhất về mức sống đi lên.

Để làm mắm, dân quê tôi chỉ dùng vại sành. Bu tôi xuống mạn Bàng La, Đồ Sơn (Hải Phòng) mua cáy mua còng. Con cáy thuộc họ cua nhưng chỉ to hơn 2 đốt ngón tay, sống trong bãi ven biển, chân nó nhiều lông mịn nên dính đầy đất, rửa sạch bọn này mệt lắm, rất tốn nước. Bọn còng thì nhỏ hơn nhưng sạch, có 2 cái còng to màu đỏ, nhiều khi còng cái (còng lớn) còn to hơn cả thân nó. Người ta chỉ làm mắm cáy mắm còng mà không làm mắm rốc, mắm rạm bởi 2 con rạm rốc này sống ở nước ngọt, tanh lắm, chỉ để nấu chín, không ăn sống được.

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Chuyện nước mắm (phần 2)

Miền Bắc những năm 60 - 70 cái gì cũng thiếu, kể cả mắm, thậm chí muối. Suốt vùng biển dọc dài từ tỉnh Quảng Ninh đến đặc khu Vĩnh Linh dường như chỉ có mỗi thương hiệu nước mắm Cát Hải ở Hải Phòng. Sau giải phóng, các nhà máy xí nghiệp tư nhân đều bị quốc hữu hóa hết, hoặc thành quốc doanh, hoặc công tư hợp doanh. Gọi là công tư hợp doanh nhưng thực chất tư nhân chả có quyền hành gì, nhà cửa công xưởng, máy móc đều phải “tự nguyện” góp vào, sản xuất theo mệnh lệnh, chủ cũ chỉ tham gia cho có chứ cán bộ nhà nước nắm hết quyền điều hành. Dạng nhà máy dệt kim Cự Doanh ở Hà Nội là vậy, sau chủ cũ chán quá bỏ luôn, thế là mặc nhiên thuộc về nhà nước. Công cuộc cải tạo tư bản tư doanh ấy thực chất là cuộc chiếm đoạt quyền sở hữu tư liệu sản xuất cá thể để gom về một đầu mối theo mô hình Liên Xô, Trung Quốc.

Nghe người lớn kể lại xí nghiệp nước mắm Cát Hải vốn là hãng nước mắm Vạn Vân nức tiếng thời Pháp thuộc. Hương... mắm bay xa, nước hoa cũng không bằng. Ngày ấy cả nước người ta hầu như chỉ biết 3 cái tên gắn với nước mắm: Vạn Vân, Phan Thiết, Phú Quốc. Dân gian có câu “Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét” để chỉ những sản vật ngon nổi danh, trong đó nước mắm Vạn Vân là thứ mới nhất được chen vào hàng đồ cổ quý hiếm. Chủ hãng Vạn Vân họ Đoàn, là bố của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Lúc chúng tôi nhớn lên thì Vạn Vân đã bị mất danh, thành Cát Hải rồi, còn nhạc sĩ Đoàn Chuẩn cũng không được chính quyền mới ưa bởi ông không đi theo kháng chiến mà vẫn ở lại thành phố, đã thành phần tư sản bóc lột lại còn văn nghệ sĩ tiểu tư sản thì đương nhiên bị hắt hủi, không lôi ra đấu tố, bắt đi tù là may. Thời trước 1954, ông sáng tác nhiều bài hát rất lãng mạn nhưng sau thì hầu như không viết được gì. Chế độ mới không chấp nhận những người như Đoàn Chuẩn.

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Chuyện ăn độn (3)

Như đã nói ở phần trước, tôi vừa sinh ra là đã chịu cảnh ăn độn, thì bú mẹ nhưng mẹ chỉ tinh ăn độn khoai, rau thay cơm nên suốt tuổi thơ tôi lúc nào cũng còi cọc đèo đẹn. Tuy nhiên, thời ăn độn ghê nhất lại là lúc bắt đầu đi làm, năm 1977, trở về sau.

Tốt nghiệp đại học tháng 12.1976, tháng 4 .1977 tôi khăn gói quả mướp xuống tàu biển Thống Nhất ở bến Chùa Vẽ, Hải Phòng vào Nam, hành nghề dạy học. Mấy tháng chờ việc ở quê nhà, thày bu tôi thương thằng con gần 4 năm đói dài đói rạc nên bồi dưỡng bù lại. 4 tháng được ăn cơm trắng, rau cỏ vườn nhà, cá mú quê cũng khá rẻ nên trông đã ra cái hồn người, có tí da tí thịt. Khi biết tôi phải vào Nam, thày tôi động viên, bảo miền Nam lúa gạo tôm cá nhiều, vào trong ấy chắc đỡ hơn, con ạ.

Thày tôi nói đúng, nhưng chỉ đúng khoảng 3 tháng. Tôi ở khu tập thể của trường trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 5 Sài Gòn, ăn cơm nhà ăn tập thể. Cơm trắng tinh, đồ ăn bữa thịt bữa cá không đến nỗi nào. Thầm nghĩ, sướng, thế mà cứ định chống lệnh, ăn vạ ở quê. Mấy anh em từ các khoa Văn, Sử, Địa của Đại học Tổng hợp Hà Nội vào, túm tụm ở chung mấy phòng trong cái khách sạn cũ dành cho quân Đại Hàn, được Quân khu 7 bàn giao cho trường làm ký túc xá. Đến bữa ăn thì kéo nhau xuống nhà ăn, ngày hai bữa, hết giờ dạy thỉnh thoảng mượn cái xe đạp làm vài vòng thăm thú phố phường. Tối chấm bài, chơi domino, gần khuya nấu mì tôm ăn xì xụp, tưởng như xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công đến nơi rồi.

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

Chuyện ăn độn (2)

Phần trước, tôi đã nhắc chung đến việc ăn độn ở miền Bắc trước năm 1975 và trên cả nước sau thời điểm ấy. Thực ra thì không phải ai cũng chịu cảnh ăn độn. Cán bộ trung ương dù thời nào cũng vậy, ngay cả khi chiến tranh ác liệt, gian khổ, thiếu thốn, đói kém nhất vẫn không phải ăn độn. Họ còn có cả vùng quy hoạch trồng lúa đặc sản ở Mễ Trì (huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) hoặc vùng lúa huyện Hải Hậu (Nam Hà, tức Nam Định và Hà Nam bây giờ) chuyên cấy lúa tám thơm, dự hương cung cấp gạo ngon cho trung ương. Hồi những năm 1973-1976 tôi học đại học, trường nằm ngay vùng lúa Mễ Trì ấy, buổi chiều ra đồng ngồi hóng gió, hương lúa thơm dìu dịu như say lòng người. Cây lúa còn thơm như vậy thì hạt gạo thơm đến thế nào.

Dân chúng chẳng ai tị nạnh với cán bộ trung ương làm gì. Quan to thì phải có chế độ đặc biệt, kể cả hạt gạo. Điều đáng quý thời ấy là những cán bộ nhơ nhỡ, be bé đều chịu chung cảnh đói kém với dân. Những cán bộ xã Thụy Hương (huyện Kiến Thụy, HP) quê tôi như ông Sơn, ông Hoạt, bà Tươm… gia đình nào cũng ăn độn như bao gia đình xã viên khác. Anh Tế con bác họ tôi là chủ nhiệm HTX nhưng giở vung nồi cơm nhà anh thấy tinh những sắn. Tôi học chung cấp 1 với anh Nguyễn Đình Gơ con bà Tươm phó bí thư xã, một lần đến rủ Gơ đi học nhóm, trúng bữa cơm Gơ rủ vào ăn một bát hẵng đi, nồi cơm cũng chỉ toàn khoai lang độn vào, được mời ăn cơm mà kỳ thực là ăn khoai, vật chất nghèo nàn nhưng cái tình thì nhớ mãi.

Thèm cơm là sự thèm thuồng thường xuyên của đám trẻ con sống ngay giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ thời ấy. Chả ao ước điều gì ghê gớm, nhiều khi chỉ ước có bát cơm trắng không độn chan nước cá kho cũng đủ thỏa khao khát. Hạt thóc thời đó là hạt vàng, phải nộp lên kho thóc nhà nước để xay gạo gửi ra tiền tuyến nuôi bộ đội, ráng chịu thèm nhạt, đói thiếu để chờ ngày chiến thắng nên ai cũng chấp nhận.

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

Chuyện ăn độn

Mới chỉ vài chục năm thôi nhưng chuyện này đã xưa như cổ tích. Bọn trẻ bây giờ, ngay cả những đứa sống ở vùng nông thôn nghèo cũng chả biết ăn độn là gì. Chúng không hình dung ăn mà lại độn, độn thế nào, độn cái gì, sao lại phải độn… Tôi có đứa cháu họ, có lần nó xin ông ơi cho cháu ăn độn với, thì ra nghe người nhớn nói, nó tưởng độn là món ngon, kiểu như gà quay, khoai tây chiên chẳng hạn. Cũng có lần nó đòi về hưu, nó bảo ông bà về hưu sao không cho cháu theo, cháu thích về hưu lắm, thích hơn ở thành phố.

Miền Bắc ăn độn trường kỳ, suốt từ sau 1954 cho mãi tới đầu thập niên 90, còn dân miền Nam trước năm 1975 không phải ăn độn, chỉ từ sau 1975 mới được nếm món đặc sản vĩ đại ấy.