Cuối phần 2, tôi có nhắc đến câu thơ trong bài “Anh chủ nhiệm” của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Ông thi sĩ này có khá nhiều bài được đưa vào sách giáo khoa, có thể kể ra Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại, Cửa Tùng, Anh chủ nhiệm, Những cánh buồm… nhưng người ta biết đến ông nhiều nhất có lẽ từ bài thơ “Anh chủ nhiệm”. Ông cũng như các nhà văn Nguyễn Khải, Đào Vũ, Nguyễn Kiên, Bùi Hiển, Nguyễn Địch Dũng, Nguyễn Thành Long… sau mỗi chuyến đi thực tế ở nông thôn lại cho ra đời tác phẩm về “cuộc sống mới, con người mới”. Thời ấy, các nhà văn nhà thơ rất muốn chứng tỏ cho đảng và nhà nước thấy họ đã lột xác, đã cải tạo triệt để như thế nào nên tác phẩm thường tô vẽ khá lòe loẹt, xa thực tế (nhưng gần với ý đồ của đảng), ca ngợi lộ liễu. Phải nói hình tượng anh chủ nhiệm trong bài thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông thật đẹp, đẹp đến mức chỉ có thể tìm thấy người như thế ở chủ nghĩa cộng sản. Thời đó, đọc nó và cảm động lắm, cứ mong sao chủ nhiệm hợp tác xã (HTX) quê mình chỉ bằng móng tay anh chủ nhiệm của bác Thông thi sĩ là cũng khoái củ tỉ rồi: “Cùng bao đồng chí anh đi trước/Đứng mũi chịu sào đầu gió ngược/Có đêm nằm nghĩ cảnh gieo neo/Vợ yếu con đông chưa hết nghèo/Nhưng rồi lại nghĩ đường đi tới/Nước nổi lo chi bèo chẳng nổi/Lại lao vào việc lòng say sưa/Hết sớm thôi chiều nắng lại mưa”, đại loại cứ sáng rỡ như vậy.
Sau thì mọi thứ vỡ ra, văn chương minh họa chỉ làm nhiệm vụ của nó chứ so với đời sống thực thì khác nhau một trời một vực. Thời ấy người ta gọi cách viết như thế là có tính đảng, theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Giờ ngẫm lại những thứ đã đọc, nếu đúng như các văn sĩ viết thì chủ nghĩa xã hội đã thành công cả 7 - 8 chục năm nay rồi chứ đâu phải như ông Nguyễn Phú Trọng nói phải chờ cả trăm năm nữa. Kinh lắm: “Dân có ruộng dập dìu hợp tác/Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/Chiêm mùa cờ đỏ ven đê/Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn” (Tố Hữu), “Đêm no ấm giọng chèo khuya khoan nhặt/Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta/Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác/Chim cu gần chim cu gáy xa xa” (Chế)... Các bố ấy ở thành phố, ăn uống đầy đủ, lâu lâu mới mò về nông thôn, đầu óc tưởng tượng quá phong phú, vẽ nông thôn đẹp như thiên đường. Chỉ những đứa như đám chúng tôi, sinh ra từ nông thôn, sống với HTX, lăn lộn với ruộng đồng, hằng ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chân lấm tay bùn, ngày hai bữa cơm đèn mới hiểu thực chất của những câu thơ ấy, chứ học trò thành phố khó hình dung được.
Thời đó, trên những bức tường nhà ủy ban, trạm xá, nhà kho, v.v.. chỗ nào cũng kẻ câu khẩu hiệu “Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”. Ông Lê Duẩn đúc kết lại đó là làm chủ tập thể. Xã viên HTX làm chủ bằng cách làm công ăn điểm. Trẻ con làm (tát nước, đập nương, dỡ khoai, hái thuốc lào…) cả ngày được 6 điểm, các bà đi cấy cả ngày được 10 điểm (1 công), đàn ông cày thì được công rưỡi (15 điểm). Cứ mỗi công, tùy mùa vụ, quy thành thóc, thường 1 công được nửa ký thóc, nếu làm cả vụ 50 công thì được chia 25 ký thóc. Cả nhà tôi tất tật thày bu tôi, các anh chị em đều ra đồng, 6 miệng ăn có vụ chỉ được nhận chưa đầy 3 tạ. 300 ký thóc nếu phơi khô, xay xát, bỏ trấu bỏ cám, chỉ còn hơn 200 ký gạo. Mà đâu phải chỉ bỏ vào mồm, trăm thứ sắm sửa cũng trông vào hạt thóc. Suốt 6 tháng trời, 6 người với 2 tạ gạo, bình quân gạo chỉ hơn 5kg/người/tháng nên ăn độn quanh năm. Vào bữa, nhìn nồi cơm lổn nhổn khoai sắn lại nhớ tiếc ngày chưa vào hợp tác. Khổ nhất là chị cả tôi ngồi đầu nồi, mỗi lần lấy đôi đũa cả xới lên tìm cơm cho thày bu và các em, cứ là tìm đỏ con mắt. Tôi biết chị tôi mỗi bữa luôn “giành” phần độn, chả mấy khi được ăn cơm nhưng nhiều lúc vẫn không thông cảm, cứ nghĩ mình bị chị ép ăn khoai sắn. Sau nhớn lên mới thấy mình tệ. Suốt thời niên thiếu, ao ước cháy bỏng nhất của tôi chỉ là được ăn cơm trắng cả tuần liền cho đã miệng.
Nhắc đến chuyện HTX, sực nhớ vụ làm khoán. HTX quê tôi (xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, TP.Hải Phòng) làm ăn càng ngày càng lụn bại, dân đói, ruộng đất cằn cỗi, người ly hương ngày càng nhiều. Thấy vậy, ông Nguyễn Văn Sơn người đứng đầu xã quyết định chia ruộng đất cho xã viên. Từ năm 1957 - 1976, ông Sơn lần lượt giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành chính và Bí thư Đảng ủy xã Thụy Hương. Tháng 3.1967 thấy dân đói quá, ông khởi động bí mật khoán hộ, chia đất phần trăm cho nông dân, cứu được cả nông dân lẫn hợp tác xã. Năm 1976, ông bị kỷ luật do “tội khoán hộ” bị cách hết chức vụ, bị phạt tiền, suýt phải đi tù. Trải qua hai cuộc chiến tranh, tù Tây (hoạt động kháng chiến bị Tây bắt giam, sau trốn được) tù ta (từng bị vu là Quốc dân đảng bị giam rồi được giải oan) đủ cả, cuối đời kể như trắng tay. Nay ông cụ còn sống, đã ngoài 90, người dân địa phương vẫn nhắc đến công lao của ông cụ. Cần nói rõ, vụ khoán hộ ở xã Đoàn Xá (cùng huyện Kiến Thụy) là mãi sau 1975 mới xảy ra chứ ở Thụy Hương đã thực hiện trước đó gần chục năm. Nhưng người ta thường nhắc đến Đoàn Xá bởi nó gắn với khoán 10, với công lao cởi trói của trung ương, vậy thôi.
Cũng may là sau khi đất nước thống nhất nhà cai trị không cố áp đặt mô hình HTX vào nông thôn miền Nam, nhất là đồng bằng sông Cửu Long. Đây đó đã hình thành tập đoàn sản xuất nông nghiệp, cũng là một kiểu HTX nhưng nó tồn tại không được bao lâu và chết yểu. HTX trên cả nước ngày càng teo tóp, có nơi đến giờ vẫn còn nhưng chỉ là danh nghĩa, là hình thức. Nó đã bị đào thải khỏi cuộc sống, bởi cũng như nó, tất cả mọi sự áp đặt, bất hợp lý không sớm thì muộn sẽ đều bị lịch sử cuốn phăng đi.
Chuyện khúc nhôi về HTX có kể mấy cũng chả dứt. Hết phong trào nọ đến phong trào kia, nào nuôi bèo hoa dâu, làm phân xanh bón ruộng, nào xây hố xí hai ngăn, phun thuốc trừ sâu (DDT, 666, Vofatoc), nghĩa vụ lương thực, trại chăn nuôi… thứ nào cũng có vấn đề. Mà thôi, nó đã như nước trôi qua cầu rồi, kể lại thêm buồn. Chỉ nói rằng HTX như tôi đã chứng kiến đã góp thêm một chương khá đen tối trong lịch sử nông thôn xứ này.
Nguyễn Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét