Nhớ năm 1969 hoặc 1970 gì đó ở huyện (Kiến Thụy, Hải Phòng) xôn xao vụ xe đạp. Chả là bọn trẻ đi vớt le mọc trong dòng nước sông Đa Độ về làm rau lợn, tới đoạn chảy qua làng Sâm Linh xã Minh Tân thì chúng vớ phải hai chiếc khung xe đạp. Nghe kể một khung Favorit, khung kia xe Thống Nhất, đều còn khá mới. Phụ tùng bị tháo hết, sạch sành sanh, trơ khung. Người ta nói với nhau bọn trộm thó được nguyên xe nhưng không dám dùng, sợ bị công an bất chợt điều tra kiểm soát trên đường sẽ tòi ra xe gian. Mỗi xe đều có số khung, biển số, sớm muộn sẽ bị phát hiện, nên chúng chỉ rã lấy phụ tùng đem ra chợ Sắt bán. Sau này, có bọn chuyên nghiệp hơn, mài số khung cũ và đục được số khung mới, sơn lại, thay đề can, làm giấy tờ giả để đem đi đăng ký lại. Hai chiếc khung xe trong đám rau lợn kia, cuối cùng công an căn cứ vào số khung, dò theo danh sách đăng ký, biết chủ xe người xã Minh Tân, trong đó một cái của gia đình ông bạn học với tôi, anh Vũ Trường Thành thôn Cốc Liễn. Thành kể, nhận khung về nhưng cũng bỏ đó bởi “đéo” có tiền mua phụ tùng lắp ráp lại.
Những năm xa ấy, hay sinh chuyện đi nhờ xe đạp. Mỗi xe đều lắp poóc ba ga phía sau để chở thêm một người. Nhiều ông cán bộ lên huyện họp đi xe không, dễ bị nhờ. Về sau, họ đối phó bằng cách buộc món gì nhè nhẹ cồng kềnh vào để người ta thấy, không nhờ nữa. Nhiều ông, mặc người già trẻ con vẫy tay xin đi nhờ, cứ kệ, phóng vụt qua. Nhưng gặp nón trắng vẫy vẫy thì khó thoát. Nhiều ông cho nàng đi nhờ, còng lưng đạp, toát mồ hôi vẫn vui như tết. Kể ra được “em” ngồi ép sát phía sau, mềm mềm âm ấm, chuyện trò ríu rít, trời cũng thua chứ nói gì đàn ông trai trẻ. Có ông bị người làng bắt gặp, về kể cho bà nhà nghe, bà bỏ dở buổi cấy tốc thẳng về, này nhé tang chứng vật chứng lời chứng rành rành, thế là vợ chồng cãi nhau chí chết.
Liên quan tới cái ba ga xe đạp, lại nhớ chuyện chú Phạm Tuân. Nhờ công bắn rơi máy bay B52 Mỹ (chả biết có thật không, bởi không thấy xác chiếc pháo đài bay ấy), lại đẹp trai, khỏe mạnh, chú được sang Liên Xô để đào tạo thành phi công vũ trụ. Năm 1980 chú Tuân bay vào vũ trụ cùng với phi công Liên Xô Gorbatko, đem theo bèo hoa dâu lên đó để… nghiên cứu. Về sau, chả ai biết công trình nghiên cứu ấy sống chết thế nào. Chú Xích cắt tóc ở làng tôi cười bảo, ối giời, đi nhờ ba ga lên chơi thôi chứ nghiên cứu nghiên kiếc gì.
Lại nhớ những con đường, vào mùa thu hoạch lúa đều bị phơi rơm trải đầy, đi xe qua khó lắm, nhất là nó cuốn vào xích, đạp nặng vô cùng. Nhiều đứa phải dừng lại hì hục tháo tháo gỡ gỡ rồi mới chạy tiếp được. Ghét nhất là những đứa nhà khá giả, thày bu nó sắm xe Phượng Hoàng hoặc Vĩnh Cửu xích hộp, rơm phơi dày mấy cũng chả xi nhê gì, đạp bon qua, liếc mình bằng nửa con mắt. Xe xích hộp là minh chứng cho thứ đẳng cấp sống trong xã hội lúc bấy giờ. Công nhận bọn Trung Quốc tài thật, cái gì chúng cũng nghĩ ra, làm được. Chả hiểu sao, chỉ chế xích hộp thôi mà nhà máy xe đạp Thống Nhất của ta bó tay chịu chết. Tôi chưa hề thấy chiếc Thống Nhất xích hộp bao giờ. Thế mà cán bộ tuyên truyền lúc nào cũng khen nức nở người Việt Nam thông minh, sáng tạo. Vừa rồi, cô em tôi bảo, đến cái vắt cam, hoặc con dao gọt mướp gọt trái cây rất đơn giản cũng nhập từ bên Tàu, rồi ta bắt chước họ, thì đừng nói thông minh sáng tạo. Hồi nhỏ ở nhà, tôi gọt mướp bằng cái cật tre lắp gán vào lưỡi dao, tuy chỗ dày chỗ mỏng nhưng cũng nhanh hơn gọt thường. Mười mấy năm vẫn thế. Sáng tạo của dân ta hình như chỉ đến mức ấy.
Chạy trên đường rơm còn rất nguy hiểm bởi dễ sụp những chỗ rãnh tát nước, và nhất là gặp bọn trẻ con chơi ngoài đường. Cô Ngọt em tôi kể có lần đạp xe qua chỗ mấy đứa trẻ thò chân ra ngoài. Cô chạy chậm lại, nhắc chúng mày rụt chân vào kẻo xe tao kẹp (cán) phải. Chúng không những chả rụt mà còn thò ra nhiều hơn, rồi thách thức “bà cứ kẹp vào chân tôi đi, phải đền tôi 2 hào”, nghĩ mà tức nhưng đành chịu. (còn tiếp)
Nguyễn Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét