Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà thơ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà thơ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2023

Đỗ Nam Cao không hề thấp (kỳ 3, cuối, đáng đọc nhất)

Thi sĩ Đỗ Nam Cao có bản sơ yếu lý lịch đậm màu chiến tranh. Ông học khóa 11 Khoa Văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (ngôi trường danh giá nhất miền Bắc thập niên 50 - 70). Đó là cái nôi nuôi dưỡng rất nhiều nhà văn nhà thơ, văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, thậm chí cả nhà chính trị lừng danh xứ này.

Tôi không “nghe hơi bắc nồi chõ”, không nghe qua trung gian nào, mà trực tiếp từ bác Cao kể, trò chuyện, nhiều lần chứ không chỉ một lần. Đơn giản bởi tôi là đàn em đồng môn của bác, học khóa 17, khi vào thì bác đã ra trường. Nhưng sau 1975 thì hai anh em có nhiều dịp gần gũi. Cái tình đồng môn thuở ấy nó sâu đậm và cụ thể lắm. Chuyện này tới cuối bài tôi sẽ nhắc.

Đỗ Nam Cao tốt nghiệp tháng 11.1970. Khi bản luận văn viết tay, được bảo vệ trong lán học giữa rừng Đại Từ (Thái Nguyên), nói theo cách văn vẻ là chưa ráo mực, thì cử nhân văn chương Đỗ Nam Cao đã xung phong lên đường vào Nam, cùng với các bạn Nguyễn Thế Khoa, Bế Kiến Quốc, Vũ Ân Thi, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Kim Cúc… Thời ấy người ta hăng vậy, kiểu “con đường ra trận là con đường vui”. Gặp thời thế, thế thời phải thế. Những Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Phan Nhật Nam của phía bên kia cũng vậy thôi. Không trách được. Nhưng chính trị thì nó khốn nạn, nhẽ ra khi “bếp lửa nhân quần ấm tối nay/chút rượu nồng đây xin rưới xuống/giải oan cho cuộc bể dâu này” (thơ Tô Thùy Yên) trong cái thời điểm sau 30.4 thì nó lại bắt người ta đi cải tạo, đi tù, thậm chí mất xác nơi rừng xanh núi đỏ.

Thứ Tư, 18 tháng 10, 2023

Đỗ Nam Cao không hề thấp (kỳ 2)

Thật đáng khen Hội Nhà văn TP.HCM và tạp chí Văn hiến đã tổ chức trang trọng, quy mô chương trình tưởng nhớ thi sĩ Đỗ Nam Cao. Giống như một lễ tưởng niệm thành kính con người thơ rất thơ mà rất đời ấy sau 12 năm bác Đỗ vào cõi vô cùng. Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn kể rằng nhẽ ra chị Hồng và hội và tạp chí Văn hiến định tổ chức năm 2021 cơ, đúng 10 năm ngày mất, tròn 10 năm vừa ý nghĩa vừa thiêng lắm, nhưng gặp cái nạn dịch Covid phải gió, nên phải chùng chình nấn ná tới lúc này. Nhơn bảo, gì thì gì, cứ phải ghi nhận sự kiên trì của chị Hồng, quyết làm cho bằng được. Thực ra, với một người vợ tài giỏi, đảm đang, yêu chồng hiểu chồng hết mực, thì dẫu (phỉ phui cái miệng) dịch có kéo dài 5 năm 10 năm 20 năm hoặc lâu hơn nữa thì cuối cùng vẫn sẽ có buổi tưởng nhớ sang trọng hoành tráng như này.

Thơ thì của chồng, nhưng công tổ chức “Ký ức còn mãi” của vợ. Tất nhiên cần ghi nhận Hội Nhà văn TP.HCM, nơi bác Cao đã sống phần lớn cuộc đời hơi ngắn nhưng đầy ý nghĩa, với nhạc trưởng Bích Ngân chủ tịch hội. Chị Ngân đã mở màn với bài tưởng nhớ Đỗ Nam Cao khá xúc động, tôi thấy đôi lần chị ngừng đọc quẹt mắt. Chỉ có yêu thương kính trọng thực lòng mới vậy.

Thứ Hai, 16 tháng 10, 2023

Đỗ Nam Cao không hề thấp

Từ hôm hăm mấy tháng 9, chị Hồng đã nhắn cho tôi, em à, chị mời em tới dự chương trình về anh Cao nhé. Tôi phúc đáp ngay, cảm ơn chị, em phải tới chứ, anh đi xa đã 12 năm rồi. Hình như sợ một đứa tính đểnh đoảng hay quên, gần tới ngày tổ chức, chị nhắn thêm nhắc lại, trong khi tôi đã đặt tờ giấy biên chữ mực tàu rõ to ngay trước màn hình máy tính “Nhớ ngày 12 tới đến chỗ bác Cao. Quên thì chết đòn”. Cứ phải cẩn thận thế mới được.

Chị Hồng tức Trần Thu Hồng. Anh Cao đương nhiên là Đỗ Nam Cao. Đám chúng tôi, những đứa được bên thắng cuộc lùa vào miền Nam công tác theo lệnh của nhà nước hồi sau năm 1975, những kẻ đói ăn, thiếu gạo, thèm cơm suốt nửa cuối thập niên 70 và dằng dặc thập niên 80 không mấy đứa không biết tới chị Hồng. Chị là đệ tử ruột của bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo anh hùng lao động. Công ty Lương thực TP.HCM đứng đầu là bà Ráo và những đệ tử sốt sắng, tài giỏi như chị Hồng đã cứu cả thành phố Sài Gòn khỏi nạn đói, chứ không thì có thể thêm nạn đói chết người như năm 1945 trong lịch sử xứ này.

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2023

Thơ

Thấy thiên hạ đang náo nức với thơ, bởi An Nam là cường quốc thơ, nếu An Nam số 2 thì không có số 1, lại bần thần nhớ mấy câu thơ của bác thi sĩ Bùi Hoàng Tám bán thịt chó người Thái Bình, sau được bác Nguyễn Huy Thiệp nhuận sắc, chỉnh lại tí chút, đưa vào bài "Trò chuyện với hoa thủy tiên". Đây cũng là kiểu thơ Bút Tre, nhiều người tham gia trong quá trình sinh sắc của nó.

Thơ rằng:

Vợ tôi dở dại dở khôn
Hôm qua nó bảo dí lồn vào thơ
Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ
Hôm nay lại bảo dí thơ vào lồn.

Nói gì thì nói, đó là người phụ nữ tỉnh táo, uyên bác, nhà phê bình thơ ca bậc nhất của xứ này.

Chú giải: Thời tôi còn bé ở quê nông thôn, thường nghe các bà hơi nhơn nhớn dùng lối diễn đạt thô bạo và nhạy cảm ấy. Chẳng hạn một bà khoe, này các bà ơi, hôm nay HTX nó bán bột mì vón đấy, về sớm để xếp hàng mà mua. Bà khác lên tiếng, thứ bột vón ấy thì bà dí lồn vào, chó nó cũng chả thèm ăn.

Hoặc có đứa thanh niên lười nhác, cứ đùn việc cho các bà, một bà cao giọng, láo nào, mày lại đây, bà lại không dí vào lồn, bà kẹp đứt đôi mày ra chứ ở đó mà đùn đẩy.

Đại loại vậy, họ biết phát huy thế mạnh mà đàn ông không có.

Nguyễn Thông

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2022

Chuyện cụ Kwan nhân ngày nhà báo

Bạn bè tếu táo thường gọi y là Kwan, Chun Do Kwan, hoặc Kwan Do Chun, hệt người gốc Hàn. Nhà cháu học đòi cái thói hư hỏng của thiên hạ (điều hay chả học, chỉ tuyền học điều dở) gọi cụ ấy là y, bởi một phần đồng tuế, phần khác đàn đúm với nhau khá lâu, chứ đã U70 cả rồi.

Nhân đây, nói thêm chuyện này, liên quan tới chữ “tuế” vừa nhắc ở trên. Để chỉ những năm mà con người ta sống, năm của đời người, tức là tuổi, thì dùng chữ tuế. Cùng tuổi với nhau gọi là đồng tuế. Nói hai người hoặc những người cùng tuổi thì dùng chữ đồng tuế chứ không phải đồng niên. Niên tức là năm, thứ thời gian vật lý, có tính khách quan, nằm ngoài con người, không nhất thiết gắn với người. Kim niên là năm nay, khứ niên là năm trước (khứ niên kim nhật thử môn trung, ngày này năm trước ở ngay trong cửa này), niên lịch là lịch năm, niên biểu là chép lại những chuyện xảy ra các năm, niên hạn là thời hạn tính bằng năm, thiếu niên là số năm còn non (để chỉ người ít tuổi), lão niên là năm già/nhiều (cho người nhiều tuổi). Vì vậy, nói người cùng tuổi dùng đồng tuế chứ không phải đồng niên, dù tuế và niên đều có nghĩa là năm.

Lại quành về cụ Kwan. Cụ í tên tục là Đỗ Trung Quân. Á à, tưởng ai, ông ni thì choa lạ chi. Sẽ nhiều người bảo thế. Vâng, cũng thuộc dạng người của công chúng, như Ngọc Trinh, Mỹ Linh, Trấn Thành chả hạn. Chỉ có điều, cụ Quân khác mấy người ấy, cụ là nhà thơ. Chính do đầu thai thành nhà thơ nên mới sinh chuyện.

Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

Một chút về thi sĩ Cầm

Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm “đi” chiều qua 20.4, từ đó tới giờ thông tin về ông dày đặc trên báo chí và mạng xã hội. Có lẽ sau sự về cõi của nhà văn tài hoa đỉnh cao Nguyễn Huy Thiệp tháng trước thì chuyến đi dài của thi sĩ Cầm gây chấn động tinh thần chả kém gì. Thế mới biết dân ta còn nặng lòng với văn chương lắm lắm. Các nhà chính trị, kể cả ông to bà nhớn, nếu qua đời dễ gì được dân chúng quan tâm như thế.

Bây giờ mà viết về thi sĩ quá cố dễ bị hiểu là “đu trend”, ăn theo, thấy người sang bắt quàng làm họ. Vậy nên tôi chỉ kể tí ti điều bản thân biết liên quan tới bác Hoàng Nhuận Cầm.

Tháng 10.1972 khi đám chúng tôi ba lô khăn gói hoặc xách hòm gỗ khóa chuông mua ở phố Hàng Bông hổn hển tới nơi sơ tán khoa văn Tổng hợp (Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội) nhập học khóa 17 thì lứa anh Cầm đã lên đường ra trận. Anh học khóa 15 (nhập học năm 1970), cùng với các anh Phạm Quang Long, Phùng Huy Thịnh, Phạm Thành Hưng, Nguyễn Thế Tường… Đang năm thứ nhất, có đợt động viên khá quy mô cho chiến trường (nôm na là đôn quân bắt lính). Trai tráng nông thôn đã đi gần sạch nên đợt này phải nhắm tới đối tượng sinh viên. Đợt “tiểu tổng động viên” diễn ra ngày 6.9.1971 nên sau này các cựu chiến binh sinh viên thường gọi tắt là đợt 6971. Các anh Thịnh, Hưng, Hải Triều, Tường, Cầm… của Văn khoa là lính 6971. Khoa Sử cũng đi nhiều, các khoa khác (toán, lý, hóa, sinh, địa) đóng trên tổng hành dinh Thượng Đình cũng lũ lượt lên đường, trong đó có anh Nguyễn Văn Thạc khoa Toán. Rất nhiều trường đại học đã phải chia tay những sinh viên ưu tú nhất của mình cho mặt trận, cho lò lửa chiến tranh. Và thật buồn, rất nhiều trong số họ không trở về, “mãi mãi tuổi hai mươi” nơi chiến địa. Đọc nhật ký của anh Thạc (học khoa Toán, nhưng từng đoạt giải nhất môn văn toàn miền Bắc năm 1970) sẽ hiểu rõ hơn về các anh.