Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn nồm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nồm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

Chuyện nồm (kỳ 5)

Chỉ có điều, thời buổi nhìn lên, thấy người ta có nhà xây, nền xi măng, sân gạch thì ai cũng ao ước. Nói đâu xa, nhà thày bu tôi cũng vậy.


Năm 1976, sau bao năm dành dụm, chắt bóp từng đồng, tích tiểu thành đại, nhặt nhạnh từng viên gạch viên ngói, từng cây gỗ, thày bu tôi cũng hoàn thành được “dự án của cả đời” là căn nhà 2 gian tường xây mái ngói nền xi măng. Chỉ có điều, vào những năm tháng đỉnh điểm thiếu thốn thời bao cấp, vữa xây cả căn nhà chủ yếu bằng vôi cát trộn, bởi mua được dăm bao xi măng thì dồn cho móng và mấy trụ cột. Dẫu sao cũng còn hơn nhà cậu Thê trước đó chỉ hết có 2 bao.


Có ngôi nhà mới hướng nam, thày bu tôi và mấy chị em tôi hài lòng lắm. Mát mẻ, cao ráo, dễ quét nhà. Khi ấy tôi chưa tốt nghiệp, chưa vào Nam, về quê chỉ mải ngắm nghía “ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang khi tới cữ nồm. Lúc đầu cũng kệ, mày ẩm mày ướt mặc mày, rồi cũng phải khô ráo chứ có ẩm được mãi khối.

Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2023

Chuyện nồm (kỳ 4)

Vừa rồi nhà cháu biên cái thực tế rằng ở nhà đất sướng nhất khi trời nồm. Tường đất nền đất hút hết hơi ẩm, nước lặn sâu vào trong đất nên mình không bị cái cảm giác nhớp nháp khó chịu. Nhưng như thế không có nghĩa chẳng bị khổ bởi nồm.


Lứa chúng tôi, thời cả miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong cái không khí “tôi chạy trên miền Bắc/hớn hở giữa mùa xuân/rạo rực muôn màu sắc/náo nức muôn bàn chân” mà sau này mới biết nó chỉ là ảo, mình bị lừa, đã chịu khổ cực thiếu thốn trăm bề. Đói ăn quanh năm, nhưng đói không liên quan đến nồm, không phải do nồm, nên không bàn ở đây. Sự mặc dính tới nồm nhiều nhất, có những chuyện giờ nghĩ lại vẫn kinh.


Cả miền Bắc hồi nửa cuối thập niên 50 tới thập niên 70 chỉ có mỗi nhà máy dệt Nam Định do người Pháp để lại, sau vài năm thì thêm nhà máy dệt 8 tháng 3. Hai nhà máy gánh vác chuyện quần áo vải vóc cho 17 triệu người. Tới khi xảy ra “chiến tranh phá hoại” năm 1964, phe xã hội chủ nghĩa tăng thêm viện trợ hàng hóa, trong đó có vải vóc, tuy nhiên hàng ngoại, những simili, tergal, kaki, pô pơ lin, lụa… chỉ dành phân phối cho cán bộ. Bán cho dân chúng chỉ là sản phẩm loại thường của dệt Nam Định, dệt 8.3 như diềm bâu/chúc bâu, phin/phin nõn, chéo go, chéo… Chị Xuân Quỳnh có câu “Ôi chiếc quần chéo go/Ống rộng dài quét đất/Chiếc áo trắng chúc bâu/Đi qua nghe sột soạt”. Người mặc mấy thứ này, gọi chung là dân áo vải, “chúng ta đoàn áo vải/sống cuộc đời rừng núi bấy nay”. Những thứ sang trọng như lụa, sa tanh, kaki, simili, ốc pho, pô pơ lin, va li de… tạo nên đẳng cấp, nhìn người mặc là biết ngay cán bộ, nhà giàu, không thuộc hạng dân thường.

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2023

Chuyện nồm (kỳ 3)

Nhà đất, tường đất, nền đất, mái rạ, hình như thứ vật liệu xây dựng cổ sơ này lại kỵ nồm, không bắt nồm. Suốt mười mấy năm sống với thày bu trong ngôi nhà như thế ở quê (làng Trà, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng), khi những gia đình “có điều kiện” ở nhà xây (hoặc có từ thời Pháp, hoặc nhà cán bộ huyện, cán bộ thành phố, chứ cán bộ xã phần đông vẫn ở nhà đất) kêu như vạc mỗi mùa nồm, thở than khổ nọ khổ kia, thì đám nhà đất vẫn khá ung dung, cứ mặc kệ. Tường đất, nền đất không bắt nồm, hơi nước bị nó hút hết, trả vào đất. Căn nhà 3 gian, thày bu tôi làm từ hồi Pháp chiếm đóng, cửa nẻo tuềnh toàng, ngoài che mưa che nắng thì chỉ phát huy được mỗi giá trị vào cữ nồm.

Nhưng mình sướng mà không biết sướng, lại cứ ngóc ngó thèm chỗ khác. Sự đời là vậy, cho tới khi tỉnh ra. Nông dân, một trăm anh thì 99 anh ao ước ở nhà xây. Một hôm, đang lúc nồm nặng, tôi có việc xuống nhà chú Ngân. Chú đi bộ đội thời đánh Pháp, sau hòa bình giải ngũ là cán bộ của thành phố, thời các ông Trần Kiên, Đoàn Duy Thành còn làm bí thư thành ủy. Chú công tác ở ban tổ chức chính quyền nên cũng được xếp hạng cán bộ có “máu mặt”. Thím Hoạch vợ chú y sĩ phụ trách trạm xá xã nên khi chú thím làm nhà được xã ưu tiên cho khu ruộng khá rộng ven đường, ngay cổng trường cấp 2. Cán bộ thành phố nên nhà cửa cơ ngơi không thể xo xúi như nông dân. Nhà gạch 4 gian, 2 thò 2 thụt, mái ngói, nền xi măng, sân gạch rộng, nhà bếp cũng xây, bể nước to chứa chục khối, chuồng lợn chuồng gà cũng xây tuốt. Cơ ngơi chú Ngân chưa vào hạng nhất làng nhưng cả làng đều thèm thuồng ao ước. Anh Bé khều con trai cụ Hiếm có lần bảo tao chỉ mong kiếp sau có được dinh cơ như nhà ông Ngân.

Thứ Năm, 20 tháng 4, 2023

Chuyện nồm (kỳ 2)

Nếu như miền Nam chỉ 2 mùa mưa nắng (mùa khô và mùa mưa, thời điểm này đang cuối mùa khô) thì miền Bắc đủ cả tứ thời xuân hạ thu đông, thời tiết khác nhau khá rõ rệt. Chen trong sự phân định 4 mùa ấy, là những mùa nho nhỏ, ví dụ mùa hanh, mùa bão, mùa nồm… Nồm thường bị ngắt quãng chứ không phải liền tù tì một mạch. Chả hạn năm nay, dạo sau tết ta đã bị nồm, bẵng đi vài tuần lại nồm nữa, lúc này có vẻ nặng nhất.

Thời tiết do ông trời, không ai cưỡng được, nhưng sự khổ vì thời tiết có liên quan tới chính thể, tới nhà cai trị. Biết bao nhiêu đường lối chính sách của người cộng sản đã khiến con người miền Bắc trở nên đáng thương trong thời tiết. Chả thế mà người ta cười cợt “bắt cửi trần phải cửi trần/cho may ô mới được phần may ô”.

Miền Bắc những năm từ nửa cuối thập niên 50 tới nửa đầu thập niên 70 là thời gian bản thân tôi trải qua sự khắc nghiệt của thời tiết. Mùa hè nắng cháy da cháy thịt, mùa đông giá rét tím tái người. Rồi bão cứ đến hẹn lại mò về, từ tháng 5 tháng 6 tới cuối năm ít nhất cũng phải chục cơn, có năm anh em tôi tỉ mỉ đếm 13 trận bão. Những cơn bão số 6, số 7 vào mấy năm 1965, 1967, 1969 tới giờ nghĩ tới vẫn rùng mình. Rồi hanh khô làm mặt mốc căng da, chân tay nứt nẻ tóe máu. Và nồm, khổ không biết trốn đâu cho hết khổ. Tất cả những thiên tai trời hành ấy, con người chỉ biết cắn răng chịu đựng, bởi quá nghèo, thiếu thốn.

Thứ Tư, 12 tháng 4, 2023

Chuyện nồm

Sài Gòn, năm thứ 49 sau cuộc “bãi bể nương dâu” 1975. Đang cuối mùa khô, sắp vào mùa mưa. Ở miền Bắc thì sắp vào hè. Trời cũng như người, trong cơn chuyển dạ, giao mùa, thường vật vã khó chịu. Ngó bản thông tin thời tiết hằng ngày cứ tự hiện ra trên điện thoại ma phôn, giật thót cả người. Mấy hôm nay tinh dững 37 - 38 độ C. Lâu nay chỉ ở nhà, nghỉ việc rồi, không phải tới cơ quan cơ qiếc nên nhà cháu diện cởi trần từ sáng sớm tới… sáng sớm hôm sau. Đỡ tốn vải, xà bông, nước, công, điện… nhưng chả bõ với cái nóng.

Nhớ hồi bé, nhà cháu thường nghe cụ thân sinh sau khi kéo xong điếu thuốc lào, ngồi trong cửa sổ ngó ra sân nắng chói chang, ngâm nga “Ai xui con cuốc gọi vào hè/Cái nóng nung người nóng nóng ghê/Ngõ trước vườn sau um những cỏ/Vang phai, thắm nhạt, ngán cho huê”. Cụ rất hay ngâm mấy câu ấy, bởi nó như một lời tâm sự, không chỉ về thời tiết, mà còn về thời cuộc. Nghe mãi thì thuộc, nhưng chả biết thơ của ai. Về sau nhà cháu tìm hiểu thì biết đó là “con” của cụ cử Dương Bá Trạc, một nhân vật lẫy lừng thời bản lề cuối thế kỷ 19, đầu 20. Cụ cử Dương Bá Trạc là anh trai của danh sĩ Dương Quảng Hàm. Bài thơ nói trên được đưa vào cuốn Quốc văn giáo khoa thư, hèn chi nhiều người thuộc. Trong bài còn có câu “Ngõ tối đua bay đóm lập lòe”, rất đời thực và rất… chính trị. Thày tôi có lần bảo các cụ ấy tài lắm, nói một chứ thực ra để hiểu mười. Sau này khi vào miền Nam, tôi hay nghe người Nam nhắc câu “Dzậy mà không phải dzậy”, ý cũng gần như thế.