Bạn bè

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Chuyện ăn độn (3)

Như đã nói ở phần trước, tôi vừa sinh ra là đã chịu cảnh ăn độn, thì bú mẹ nhưng mẹ chỉ tinh ăn độn khoai, rau thay cơm nên suốt tuổi thơ tôi lúc nào cũng còi cọc đèo đẹn. Tuy nhiên, thời ăn độn ghê nhất lại là lúc bắt đầu đi làm, năm 1977, trở về sau.

Tốt nghiệp đại học tháng 12.1976, tháng 4 .1977 tôi khăn gói quả mướp xuống tàu biển Thống Nhất ở bến Chùa Vẽ, Hải Phòng vào Nam, hành nghề dạy học. Mấy tháng chờ việc ở quê nhà, thày bu tôi thương thằng con gần 4 năm đói dài đói rạc nên bồi dưỡng bù lại. 4 tháng được ăn cơm trắng, rau cỏ vườn nhà, cá mú quê cũng khá rẻ nên trông đã ra cái hồn người, có tí da tí thịt. Khi biết tôi phải vào Nam, thày tôi động viên, bảo miền Nam lúa gạo tôm cá nhiều, vào trong ấy chắc đỡ hơn, con ạ.

Thày tôi nói đúng, nhưng chỉ đúng khoảng 3 tháng. Tôi ở khu tập thể của trường trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 5 Sài Gòn, ăn cơm nhà ăn tập thể. Cơm trắng tinh, đồ ăn bữa thịt bữa cá không đến nỗi nào. Thầm nghĩ, sướng, thế mà cứ định chống lệnh, ăn vạ ở quê. Mấy anh em từ các khoa Văn, Sử, Địa của Đại học Tổng hợp Hà Nội vào, túm tụm ở chung mấy phòng trong cái khách sạn cũ dành cho quân Đại Hàn, được Quân khu 7 bàn giao cho trường làm ký túc xá. Đến bữa ăn thì kéo nhau xuống nhà ăn, ngày hai bữa, hết giờ dạy thỉnh thoảng mượn cái xe đạp làm vài vòng thăm thú phố phường. Tối chấm bài, chơi domino, gần khuya nấu mì tôm ăn xì xụp, tưởng như xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công đến nơi rồi.


Được 3 tháng, đến cuối tháng 7.1977. Đùng một cái, hết gạo. Nhà bếp thông báo từ nay không nấu cho giáo viên nữa, để các anh chị tự mua lương thực tiêu chuẩn về nấu riêng. Chả là gạo tiêu chuẩn 16 ký giờ chỉ còn 6 ký, số còn lại được thay bằng mì tôm, sắn (củ mì), bột mì. Sang năm 1978 kinh hoàng hơn, củ mì bột mì cũng hiếm, chỉ rặt hạt bo bo (lúa mạch nhập về để chăn nuôi nhưng giờ dành cho người). Với khẩu phần lương thực đa dạng hổ lốn thế, nhà bếp bó tay chả biết phải nấu nướng thế nào phục vụ thầy cô giáo. Với đám sinh viên, nhét kiểu gì cái gì vào mồm chúng mà chả được, nhưng với những “bậc” trí thức thì họ ngại. Chả nhẽ lại phát cho thầy cô 3 củ sắn luộc ăn trước khi lên lớp.

Trong số thức độn đó, may mắn là mỗi tháng có 8 gói mì tôm. Mì gói giấy hiệu Vifon hoặc Colusa, vỏ có 2 con tôm nên chết tên mì tôm. Sau này có thời gian dài, mì gì thì mì, bất kể hãng sản xuất nào, dân chúng đều gọi là mì tôm tuốt, cũng như có thời bất cứ loại xe máy nào cũng gọi thành xe Honda. Tôi với thầy Vy đồng hương Phòng, đồng khóa (anh Vy người Thủy Nguyên, Văn khoa khóa 16) bàn cách gộp mì tôm lại được 16 gói, nhờ Đào Gia Thiệp là bộ đội đi học đem xuống hẻm bán cho bà người Tàu rồi mua lại gạo của bà ấy (bà này chuyên buôn lậu gạo). Mì ăn liền thời đó hiếm, chỉ phân phối cho cán bộ nhân viên nhà nước nên được giá. 16 gói mì chuyển ngang được 4 ký gạo, đem về nấu dè sẻn cho đỡ thòm thèm hơi cơm.

Hồi ấy, một ký gạo được quy thành 3 ký bo bo. Người và lợn tranh nhau thứ đặc sản này. Nó nhỏ hơn hạt đỗ đen, màu nâu nhạt, lõm giữa, cứng như đá. Đã không có điện đun nấu, thiếu cả than củi (đến nỗi thầy Võ Thanh Long dạy lý trong chuyến đi chơi thăm công trình thủy điện Trị An chỉ nhăm nhăm mua củi, đem về chất đầy hành lang KTX, còn nhà chú Thăng chỉ chẻ củi mà nát cả gạch phòng xép), vậy mà thứ của khỉ này đổ vào nồi nhôm đặt lên bếp than tổ ong hầm đến lụi bếp mới chịu nở mềm. Nhai nó nhạt nhẽo, như trâu trệu trạo nhai rơm trong chuồng. Không ăn thì đói, cố nuốt, nước mắt trào ra. Không ngờ đời giáo học của nhà trường xã hội chủ nghĩa một đất nước đã thống nhất mà khổ thế, khổ như con lợn, thảm hơn cả anh giáo Thứ trong Sống mòn của cụ Nam Cao xưa kia. 


Lão Vy nghĩ ra một kế, hầm bo bo cho mềm xong, lấy chảo quẹt tí mỡ (mỡ cũng hiếm) đổ bo bo vào đảo lên, nêm nếm mắm muối, thêm ít cọng rau, Vy đặt tên “Ngọc thực đặc sản”. Xơi được vài bữa cũng chán bởi dù gì nó cũng là bo bo. Mì tôm còn có giá, còn bán cho mụ Tàu được, chứ bo bo thì chó nó mua. Thưởng thức bo bo được vài năm, mặt anh nào anh ấy hõm vào, giơ xương, hốc hác, thiếu hẳn sinh khí, nhìn mặt chỉ thấy cằm thấy trán, lơ thơ tí thịt. Đó là khuôn mặt điển hình của phần đông giáo chức những năm từ 1978 đến giữa những năm 1980. Cuối năm 1980 tôi cưới vợ. Thầy Châu Hoàng Tiểng dạy toán, người chụp ảnh duy nhất của Trường Dự bị đại học TP.HCM, ưu ái chụp cho cuộn phim đen trắng ORWO 32 kiểu. Giờ thỉnh thoảng lật giở coi lại mấy cái hình đám cưới, nhìn mặt mình, cứ tưởng đứa nào. (còn tiếp)

Nguyễn Thông

3 nhận xét:

  1. An don nhung la thuc pham sach khong ung thu-ngay nay an uong day du va nhanh ve am phu -kho lam VN oi.

    Trả lờiXóa
  2. Tôi hơn chú Thông 5 tuổi và may mắn là sống ở Miến Nam Việt Nam nên suốt đời niên thiếu mặc dù con nhà lao động nhưng ăn cơm gạo tám thơm quanh năm. Chỉ sau khi miền nam bị phỏng dái mới bị ăn độn. Làm giáo viên mà ăn 3kg gạo+ 6 kg sắn trong 1 tháng, lương 48 đồng mà dạy 3 tháng mới lãnh tháng thứ nhất. Đúng là chế độ cs bóc lột tận xương tủy nhân dân chứ không phải chế độ tư bản như mình đã học tập chính trị đâu!

    Trả lờiXóa
  3. cũng là một cách để nhắc về quá khứ cho thế hệ sau biết chúng ta đã sống một thời huy hoàng và rực rỡ như thế đấy

    Trả lờiXóa