Tháng 10 - 11 năm nay 2012, K17 Ngữ văn, Tổng hợp Hà Nội chúng tôi kỷ niệm tròn 40 năm ngày nhập trường. Bọn Hán Nôm nghe nói đang có kế hoạch ôn cố hoành tráng lắm. Văn cũng rục rịch ra Kỷ yếu, sắp xong (thằng Cao Tự Thanh bảo chúng mày mà cũng ra được kỷ yếu à), rồi tụ họp ở Hải Phòng cuối năm. Còn các bạn Ngữ, mình đã nhận được bài của cái Bùi Lan Hoa. Hì hì, nó nhớ dai ra phết.
Tại sao tôi lại học lớp Ngữ ?
BÙI LAN HOA
Cuối
tháng 11 năm 1972 đã vào mùa đông. Sau 3-4 tháng chờ đợi giấy gọi vào ĐH, đến
lúc đã oải lắm rồi, tôi lại nhận được giấy vào Khoa Ngữ văn trường ĐH Tổng hợp.
Khỏi phải nói là gia đình tôi và tôi mừng đến mức nào.
Hà Nội lúc đó đã khá lạnh, tôi mặc áo khoác bộ
đội (lúc đó là mốt đấy), áo len và khăn choàng sù sụ…sao lại rét đến thế nhỉ?
Tôi tả tôi kỹ như vậy để nói đến sự tương phản: sau gần 1 tháng, tôi gặp bạn bè cùng khóa đến từ
các tỉnh, họ chỉ mặc áo sơ mi và sơ sài quần lụa mỏng manh.
Quây quần cùng mẹ mình tại quê Hải Phòng tháng 2.2012, từ trái sang: anh Vũ Lệnh Năng, Thông cào (lấp ló cái đầu), Bùi Lan Hoa (em bé quàng khăn đỏ), Lê Thanh Nga, mẹ. (Bá Tân chụp)
Hà Nội đang đi sơ tán vì Mỹ de dọa rải thảm
bom B52 (đúng là sau khi vào trường 1 tháng thì thảm kịch này đã xảy ra). Tôi
hỏi đường tới Khoa Ngữ văn ở thôn Sát Thượng, huyện Yên Phong không dễ vì theo
chỉ dẫn của giấy gọi ĐH chỉ ghi ngắn gọn tên địa danh. Một người bạn của chị
tôi đã vẽ đường cho tôi đi. Thế là lên đường.
Anh trai tôi đèo tôi, còn Huỳnh Dũng Nhân bạn
tôi đèo ba lô, chăn bông cho tôi. Chả hiểu sao Nhân lại được nghỉ học vào lúc
đó? Nó học kém tôi 1 lớp, nhưng cùng sinh hoạt trong nhóm viết văn trẻ của NXB
Kim Đồng mà lúc đó do chị Nhâm khởi xướng. Nhỏ bé, đen nhẻm và linh hoạt, Nhân
thạo đường Bắc Ninh nên 3 anh em đi khá nhanh.
Tới nơi, người đón tiếp chúng tôi là thày Bùi
Thanh Quất. Thầy nói rất nhanh, cử chỉ linh hoạt, sau này tôi biết là thầy lúc
đó chưa có vợ và còn làm Bí thư Đoàn trường nữa.
Khá
đông bạn bè đến cùng lúc tôi đến, phần lớn là ở các tỉnh. Thói quen trẻ con của
đứa mới xa nhà, tôi luôn có ý tìm kiếm xem có ai là người Hà Nội. Nhưng không
thấy? Nhưng rồi may quá, có Bình là người Hà Nội với mái tóc bông xù buộc kỹ.
Nó khá lãnh đạm, nhìn tôi và bình thản chẳng hỏi han gì hơn. Rồi Phương cao lộc
ngộc, Thọ cứ đủng đỉnh như ông già vậy. Đấy là 3 người Hà Nội mà sau này đều học ở lớp Ngữ.
Từ trái sang, hàng trên: anh Nguyễn Doãn Tấn, Thông cào, Nguyễn Bá Tân; hàng dưới: Trần Ngọc Vương, Vũ Lệnh Năng, Bùi Lan Hoa (tác giả bài này), Nguyễn Thị Thúy, Lê Thanh Nga, Nguyễn Thị Bé, Trần Thị Sánh, Đỗ Thị Cúc, Nguyễn Thị Mét. Hải Phòng tháng 2.2012, sân nhà mình.
Sau hơn 1 tuần, sinh viên K17 đến gần đủ. Tôi
nhớ khóa tôi có khoảng gần 100 người. Những hôm học nội quy trong kho thóc mà
tôi đếm mãi vẫn không hết vì có ai ngồi theo hàng lối gì đâu. Thỉnh thoảng ai
đó lại chạy ngồi gần đống thóc giữa nhà, rồi lại chui đi đâu, chịu không tìm ra
được.
Và
bây giờ là đến đoạn chia lớp, sẽ có 3 lớp : Lớp Văn, lớp Ngữ, lớp Hán Nôm…Tât
cả chúng tôi rất hoang mang. Tôi không hiểu lớp Ngữ sẽ học gì, chứ Văn và Hán
Nôm đã rõ mục tiêu như tên gọi của nó rồi. Các thầy cô dạy Văn, dạy Ngữ, dạy
Hán Nôm đã có buổi tiếp xúc với sinh viên ngay tại lớp học. Tôi không nhớ thầy
cô dạy Văn nói với lớp thế nào, nhưng chúng tôi được thầy Nguyễn Hàm Dương và
cô Hoàng Thị Châu dạy Ngữ nói chuyện về sẽ học gì ở lớp Ngữ. Thầy Dương phong
thái như tài tử xi nê ma vậy, thầy nói rất tự nhiên, nào là chúng ta sẽ học
Toán thống kê, Toán logic…nói chung khoa học Ngữ sẽ là ngành học chính xác,
không mơ mộng như học Văn. Với áo blu dông len đen, quần len màu xanh tím, cùng
với chiếc khăn len ghi xám trễ trên cổ, thầy Dương có sức quyến rũ khó tả đối
với chúng tôi lúc bấy giờ. Tôi học Toán không dốt, ừ, thế thì mình vào học lớp
này cho biết tay. Bình, Phương và cả Thọ nữa cũng xin vào lớp Ngữ. Chẳng hiểu
là có đứa nào lôi kéo đứa nào không mà cả 4 dân Hà Nội cùng chui vào chỗ này?
Chúng
tôi - lớp Ngữ có 20 người, 6 nữ. Trong khi đó lớp Văn hơn 60 người mà 2/3 là
nữ, lớp Hán Nôm 13 người, hình như khoảng một nửa là nữ.
Chúng tôi học chung các môn cơ bản trong 2 năm
đầu tiên. Vì học chung như vậy, tôi nghiệm ra một điều là tôi được “lợi” hơn
bọn học Văn nhiều. Những điểm lợi tôi sẽ kể kỹ ở phần sau này.
Chúng tôi ở riêng theo lớp, thế là tôi phải
tạm biệt Sánh và Dung. Tôi ở chung với Bình bông. Tôi nhớ hôm đầu gặp Sánh, mắt
nó luôn đỏ hoe như vừa khóc. Chả thế mà sau khi bố Sánh dứt áo để đạp xe về Hà
Nội , nó khóc thảm thiết và chạy theo bố trên bờ đê bến đò Đông Xuyên, cứ gọi bố
ơi bố, ở lại với con… Tôi chạy theo hai bố con, níu giữ nó lại. Nói một thôi
một hồi nó mới bình tâm để bố đạp xe về… Thế mà mang tiếng là chị cả của 6 đứa
em đấy, mà phải để một con là gái út dỗ dành, thật như đùa vậy. Nó vốn là đứa
hay mau nước mắt. Tuy đi Nam về Bắc như đi chợ, nhưng thấy cảnh nào đau thương
hay uất ức điều gì là khóc ngay. Sau này, tôi hay đi với Sánh, tôi biết được
điều đó.
Đêm Noel 1972 là một đêm dữ dội, suốt đời tôi
không thể nào quên. Tôi và Bình mò ra cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ, ngồi đấy mà
nhìn về phía Hà Nội, nơi chớp bom B52, lửa đạn loàng nhoàng dồn dập đến gần nửa
đêm. Tôi đã khóc và nói với Bình rằng Hà Nội sẽ chẳng còn gì nữa rồi… tuy cả
nhà tôi đã đi sơ tán hết, nhưng còn phố phường, và bao người còn ở lại sống
chết với thủ đô.
Bốn ngày sau, sau khi Mỹ ngừng ném bom Hà Nội,
tôi và Huỳnh Ân Thạnh (bạn tôi học ở khoa Kinh tế, sơ tán gần Sát Thượng) chung
một xe đạp Phượng hoàng lao về Hà Nội, chúng tôi phải dắt bộ qua ga Yên Viên
mất hơn 2 tiếng, sau đi tiếp hơn 2 tiếng nữa mới về được đến nhà. May quá, nhà
tôi (ở phố Huế) và nhà Thạnh (ở phố Trần Hưng Đạo) không sao… Chúng tôi đi đến
phố Khâm Thiên nhưng bị chặn lại từ nơi chắn tàu, chỉ nhìn thấy khói vẫn đang
nghi ngút ở giữa phố, gạch vỡ ngổn ngang, mọi người đều vội vã thu dọn… Sau
chuyến đi chớp nhoáng này, tôi bị thày Quất phê bình rát cả mặt.
Khoảng tháng 2 dương lịch năm 1973, toàn bộ
các khoa sơ tán ở Yên Phong đã trở về Hà Nội, khoa Ngữ văn ở tại khu Mễ Trì cho
đến khi chúng tôi ra trường. Một trang mới của đời sinh viên ngoại trú bắt đầu.
Tôi
có thể ở trong khu KTX của khoa, tôi có 1 chỗ (giường sắt) tầng 2, trên đầu cái
Sân. Tôi đã ở thử 3 tuần trong đó, nhưng mà nước khan hiếm, khu vệ sinh công
cộng thật kinh hãi, đành “bỏ của chạy lấy người” vậy. Trong khi mình có nhà ở Hà
Nội sao mà lại vào đây ở. Thế tôi mới khâm phục cái Phương đã ở mãi KTX cho đến
năm cuối nó mới về nhà nó ở phố Thái Phiên.
Lạ một cái là dân học Ngữ ở ngoại trú toàn dân
Hà Nội, hồi đó không có chỗ thuê nhà ở như bây giờ, sáng nào chúng tôi cũng gặp
nhau trên ô tô buýt vào Hà Đông: K17 có tôi, Bình, Thọ, Vinh (lúc đầu tôi tưởng
nó là dân Hà Nội, nhưng nó có thể được cả giọng Nghệ An khi về quê, còn ở Hà
Nội nó nói giọng Hà Nội và ở với chú, nó đi xe đạp là chính.). K16 có Cẩm Vân,
Thìn, Hằng, Minh ẻo lả như con gái. K18 có Thuận, Thủy, Mai, Vịnh...
Có những điều mà sinh viên nội trú không bao
giờ có được, ví dụ, dù nhỏ thôi: Thỉnh
thoảng phải chạy đến nghẹt thở để kịp chuyến xe buýt lúc 6g30 phút. Chỉ chậm 1 giây là phải đợi đến 15 phút nữa, thế
là vào lớp muộn và có thể bị bêu gương ngay. Có lần tôi vào chậm 15 phút, khi
cả lớp đang chăm chú nghe thày Hà Minh Đức giảng, tôi len lén chui vào cuối
lớp. Nửa tiếng trôi qua rất yên tĩnh… nhưng tự dưng tôi thấy thày Đức đứng lù
lù cạnh đầu bàn tôi ngồi. Thầy nghiêm giọng hỏi: Cô viết bài giảng của tôi thế
nào? Vừa hỏi, thầy vớ ngay quyển vở của tôi, thầy đọc to “Tóc em dài như một
ngày mệt mỏi, tóc chị Hoài giống tóc cái Lan…”. Cô viết cái gì vậy? Tôi nói về
bài “Tóc chị Hoài “có phải vậy đâu? Cả lớp cười ầm lên. Tôi cũng không giải
thích được vì sao tôi viết như thế, tôi nói với thầy là tôi mệt quá vì chạy
nhanh hoa mắt nên viết lăng nhăng? Thầy cười tủm tỉm “tôi coi đây là một liên
tưởng sáng tạo”. Thế là cả lớp lại cười ầm ĩ.
Lại
phải nói nhiều đến xe buýt. Là sinh viên mà không đi xe buýt là một thiêt thòi
lớn. Tôi đã từng trốn vé, tôi đã từng quên mua vé tháng nên cả tháng khốn khổ
vì phải kiếm tiền lẻ mua vé hằng ngày. Rồi một lần, tôi đang đứng ở cuối xe,
tôi đang móc cặp để lấy tiền mua vé thì
thấy tiếng người đứng trước nói “Anh bán cho 2 vé, cho cả em này nữa”. Cô ấy
mặc áo sơ mi đen, ôi, cô Hoàng “phương Tây”. Chả là cô đang dạy khóa tôi về văn
học Hy Lạp, mặc dù cô là giảng viên của ĐH Sư phạm HN. Tôi lí nhí cảm ơn cô, “sao
hôm nay cô lại đi xe buýt, mọi khi em thấy cô đi xe đạp cơ mà?”. Ừ, con bé nhà
cô đi xe, cô đi xe này có sao đâu. Cô dạy bên ĐH Sư phạm vẫn đi buýt mà”.
Tôi
không dám nhận là cô Hoàng có yêu quý mình hơn các bạn khác không, nhưng vài
lần đi xe cùng như thế này, cô đã cho tôi địa chỉ nhà riêng và mời đến nhà chơi
“vì em hứng thú với văn học phương Tây, tôi có rất nhiều sách, em có thể đến
mượn”. Từ bé đến giờ, tôi chả thấy thầy cô nào lại nhiệt tình với học trò như
vậy, lại còn hứa cho mượn sách nữa chứ?
Chắc các bạn còn nhớ những buổi học của cô
Hoàng? Chẳng cần giáo trình, hay vở ghi gì cả, cô nói giọng trầm ấm áp, rất
biểu cảm, thường nói liền 2 tiết học. Cả lớp im phăng phắc. Tôi đoán là có
nhiều nam sinh mê cô Hoàng? Luôn mặc áo mầu đen, cao lớn và trắng trẻo, phong cách khoáng đạt kiểu phớt đời. Sau này
tôi có đọc nhiều của một Nguyễn Thị Hoàng khác, viết Văn trước năm 1975, chẳng
hiểu sao tôi lại liên tưởng đến cô Hoàng dạy chúng tôi có 1 học kỳ năm 1973.
Tôi nghe nói là cô đã lấy luật sư Lê Văn Hảo, đã đi Pháp ở, và giờ ở thành phố nào
nữa thì tôi không biết. Nhưng dù cô ở đâu đi nữa, tôi luôn cầu mong cho cô hạnh phúc.
Có một hôm, bọn cái Sánh thì thầm bảo tôi “thày
Trác tìm mày đấy, đã qua hỏi chúng tao 2 lần rồi, mày biến đi đâu thế?”. Tôi
cũng ngớ ra, có việc gì mà thầy tìm mình nhỉ? Bỏ mẹ, hay thầy phát hiện ra mình
có họ với thày? Chả là tôi cùng họ Bùi. Mà thầy là Bùi Ngọc Trác. Tôi rụt rè gõ
cửa nhà thầy. Ôi chao ơi là bề bộn, cái bàn chất đầy sách, nồi cơm để bên cạnh,
ghế ngồi có một cái, thấy tôi, thầy bỏ đống sách trên ghế, đẩy ra phía tôi và
nói “Em ngồi đi. Tôi tìm em vì bài luận về lý luận văn học của lớp tôi vừa
chấm. Em viết được đấy, tôi cho em 9 điểm”. Tôi thấy nhẹ cả người. Thầy cười rất
hiền, râu quai nón đen sì, mắt sáng lấp lánh. Tôi cảm ơn thầy và xin phép về.
Thầy nói tiếp luôn “Em có thích xem kịch không? Tôi đang viết về kịch, đoàn nào
cũng mời. Tôi sẽ cho em 1 vé?”. Chắc sợ tôi hiểu lầm, rất nhanh, thầy tiếp luôn
“tất nhiên là em không phải ngồi cạnh tôi đâu, tôi ngồi chỗ khác em mà, tôi
thấy bỏ 1vé đi thì phí quá…”. Tôi lại cảm ơn thầy lần nữa và nói rằng tôi rất
ghét xem kịch. Mà thật cho đến giờ, tôi chỉ xem mỗi một vở duy nhất là “Erostrat,
kẻ đốt đền”. Ai cho vé xem kịch, tôi đều đem cho hết.
Sau này tôi nghe các anh K15 nói là thầy Trác
rất hay đi xem kịch một mình, mà lần nào về cũng bị muộn (nhà thầy ở trong KTX
mà 11 giờ đêm là KTX đóng cửa) do vậy thầy phải trèo cửa sắt và sau đó các anh
nâng hộ xe đạp cho thầy đỡ lấy ở dưới đất. Khổ quá, chân thầy lại bị tật thế,
giá như thời đấy có tắc xi như bây giờ.
Học
ở bên khu ĐH Ngoại ngữ một thời gian rất ngắn, sau đó tất cả chúng tôi chuyển
qua khu Mễ Trì. Xung quanh Khoa Văn, Sử lúc ấy
toàn là đồng lúa, lúc xanh ngắt, lúc trĩu vàng, sao mà thơm mát, yên
bình đến thế. Bây giờ, ai nói tôi tìm lại nơi học cũ, với phố xá san sát thế
này, tôi chịu. Vừa vào hội trường học, tôi đã thấy một dòng chữ đậm “Ta gọi mối
tình đầu là hoa violet. Nghe em cười tím rịm cả vòm cây”. Rồi ở một lớp học gần
khoa Sử, lại một câu thơ nữa “Những vần thơ trong mơ. Tôi nghĩ mà chưa viết. Nhưng tôi vẵn cứ chờ.Chỉ lo mình sắp chết”. Đọc
nghe mới ghê chứ. Mọi người nói khẩu khí này có thể là tuyên ngôn của Đỗ Minh
Tuấn K16, sau này vừa là nhà thơ kiêm biên kịch và đạo diễn điện ảnh.
Là sinh viên ngoại trú, còn một cái thú vui
khác là đến thư viện. Tôi yêu thư viện Quốc gia từ giữa năm thứ 2. Như một con
nghiện vậy, không chiều nào tôi không ra đó, kể cả ngày thứ bảy. Vì ở đó có cơ
man nào là sách, báo, tạp chí và lại ngự ở trong một khu vườn đẹp đẽ. Khuôn
viên của thư viện thời đó vẫn còn phảng phất vẻ hoang dã tự nhiên, có những lùm
cây dạ hương, xen lẫn các bụi hồng, rồi các cây long não cổ thụ, hoàng lan… tỏa
hương vào chiều tối, nhất là khi mùa đông về càng ngào ngạt. Tôi vẫn nghĩ đấy
là khu “vườn trong phố” của Lưu Quang Vũ. Có thể là Vũ đã vào ngồi ở khu vườn
thư viện này mà viết nên những vần thơ say đắm như vậy chăng?
Sau
này tôi đã chèo kéo thêm cả Thủy - Chương cùng đi thư viện. Dạo đó họ còn đang
ở giai đoạn nồng thắm. Thỉnh thoảng Thủy cũng về nhà tôi khi đã muộn lắm rồi,
gần 8 giờ tối, chúng tôi lục cơm ăn, đã nguội nên phải rang lên để ăn kèm với
lạc rang, trứng tráng.
Tôi có gặp cô Hoàng trong vườn thư viện vài
lần. Cô nói cô cần thông tin của một vài tờ báo Pháp mới ra nói về văn học cổ
Pháp, cô đọc bằng tiếng Pháp mới nể chứ. Một hôm cô chỉ cho tôi bóng một người
vừa đi qua “em có thấy là người đó có cái gáy phẳng rất tự khẳng định mình kia
không?”. Tôi nhìn dõi theo thì chợt nhận ra là thầy Hà Minh Đức. Cô Hoàng cười
rất giòn, thày của em mà em không nhận ra ngay à? Và kèm một cái nhún vai đầy
ẩn ý. Thực ra thì tôi cũng không hiểu ý cô là khen hay chế giễu nữa. Tôi đã
không bình luận gì.
Tôi
đã viết luận văn trong thư viện. Thầy Dương hướng dẫn (ơn Trời), chỉ ra một
đống sách tôi cần phải đọc. Tôi rất lo, sách về ngôn ngữ học đã hiếm rồi, sách
về ngôn ngữ học thần kinh lại càng không có. Sau hơn 3 ngày tra cứu trên các
phiếu của thư mục, tôi đành gặp thầy và chán nản than “em sẽ viết theo những gì
thu lượm từ thầy, chứ thư viện chỉ có 3 quyển về Ngôn ngữ thần kinh của Viện sĩ
Luria bằng tiếng Nga thôi”. “Thế em phải đọc bằng tiếng Nga đi chứ, tốt nghiệp
trường ĐH Tổng hợp là phải thông thạo một ngoại ngữ đấy”. Thế thì bằng giết tôi
rồi, một tuần hoc 2 tiết tiếng Nga, mà có sử dụng nói năng bao giờ đâu mà thầy
bắt tôi đọc trực tiếp văn bản (sau này, khi làm ở Bộ Đại học, tôi biết đây là
một tiêu chuẩn bắt buộc để phong Phó giáo sư, tôi nghĩ, giá mà cho thi tuyển
ngoại ngữ cái đám PGS ở VN thì chắc phải rụng đến 1/3 chứ không ít). Thầy cười
tủm tỉm “tôi hiểu rồi, làm sao em đọc được, tôi đã dịch toàn bộ bài giảng của
Luria ra tiếng Việt, một nhà xuất bản hứa duyệt để in, trong khi chờ in, tôi
cho em mượn một bản để đọc tham khảo, cấm sao chép nhé, em mà cóp của tôi là
tôi biết đấy”. Hôm sau thầy mang cho tôi tập bản thảo dày gần 400 trang. Tôi
cầm mà cảm động đến không nói được câu nào. Thầy còn ném tọt vào lòng tôi một bọc
giấy, nóng bỏng. Tôi kêu lên “gì thế ạ?”. “Trứng vịt lộn, tôi vừa đi qua phố
Hàng Bông, mua cho vợ mấy quả, nghĩ thương cô trò nhỏ giờ chắc cũng đói rồi,
mua thêm 3 quả cho em, ăn đi, lấy sức rồi viết. Một tuần nữa, em phải có chương
1 cho tôi đấy”. Không đợi tôi cảm ơn, thầy sải bước ra về luôn.
Tôi nghĩ, bọn học Văn làm sao được biết những
bệnh nhân ngôn ngữ? Những chứng mất ngôn khác nhau, mà sau đại chiến thứ 2, các
nhà khoa học Liên Xô đã nghiên cứu và công bố trên hàng loạt tạp chí, còn ở
Việt Nam mới chỉ có một vài bác sĩ chú ý và có tiến sĩ Nguyễn Hàm Dương đã
nghiên cứu về mặt ngôn ngữ, cùng các học trò của mình. Tôi là sinh viên thứ 3
thầy Dương truyền thụ cho kiến thức này. Tôi đã cùng thầy vào Viện Quân y 103,
dưới sự giới thiệu của Hiệu trưởng Học viện Quân y - Thiếu tướng Huấn đã dẫn
chúng tôi tới thăm các thương binh, những người bị mất ngôn ngữ. Họ tuy lành
lặn, nhưng chỉ ú ớ, hoặc lắc đầu, hoặc im lặng dùng bàn tay để nói. Rất nhiều
người bị cùng với các vết thương khác kèm theo nhưng thật thương tâm khi họ không nói được. Vấn đề
ở đây là ngoài các biện pháp y học lâm sàng, thì về mặt ngôn ngữ, phải có biện
pháp gì để có thể khôi phục nói năng cho bệnh nhân? Chúng tôi được đưa tới khoa
Giải phẫu để được xem tận mắt những tổn thương trên não của những bệnh nhân mất
ngôn. Ở đây, tôi được nhìn thấy rất nhiều não người được ngâm phormol để trong
các bình khác nhau. Một đại úy vớt một bộ não ngâm trong bình thủy tinh ra, ông
cắt dọc xuống, như người ta cắt thạch vậy, để chỉ ra các vết máu tụ rải rác
trên toàn bộ thân não. Thầy Dương chỉ cho chúng tôi thấy máu tụ ở vùng ngôn ngữ
đậm đặc hơn các vùng khác. Tôi hỏi “sao không mổ để hút máu vùng đó ra? Khi đó
có thể cứu vãn được ngôn ngữ chứ ạ?”. Ông đại úy trả lời “bệnh nhân đã chết
trên đường đến đây, không nói được gì với anh em”.
Cũng
như 2 sinh viên các khóa trước, thày Dương và chúng tôi chỉ đưa ra được một số
biện pháp khôi phục ngôn ngữ cho người bệnh, hoàn toàn thuần túy ngôn ngữ học.
Nhưng theo tôi được biết, trên thế giới người ta đã làm thật quy mô để chữa
chứng mất ngôn này, đó là có sự kết hơp chặt chẽ giữa bác sĩ nội khoa và nhà
ngôn ngữ học, cùng với các phương tiện máy móc luyện âm hiện đại cũng như có
các loại thuốc đặc hiệu khác nhau dùng phối hợp. Đến nay, thày Dương không còn
nữa, giáo trình của thày cũng không thấy in ra và những đề xuất của chúng tôi
chắc cũng rơi vào lãng quên, cũng giống như bao NCKH của các sinh viên VN dù
được giải thưởng xuất sắc cũng chỉ còn là kỷ niệm.
Tôi kể lan man nhiều thứ như vậy cũng để nói
rằng tôi không ân hận vì đã vào học lớp Ngữ. Vì tôi đã được lợi kép cả 2 đường,
vừa được học Văn với những thầy cô “đinh” như cô Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh,
Nguyễn Thị Hoàng…, thầy Hà Minh Đức, Trần Đình Hượu, Đỗ Hồng Chung… Với lớp Ngữ,
tôi được biết đến sự uyên bác của thầy Nguyễn Tài Cẩn, sự nhiệt tình đến bốc
đồng của thày Hoàng Trọng Phiến, sự cẩn thận, mực thước của thầy Đoàn Thiện
Thuật, và sự tài hoa, thông minh và lãng tử của thầy Nguyễn Hàm Dương… Nhưng có
lẽ tôi chơi thân nhiều với lớp Văn hơn, cái Hương lớn vẫn nói là con Lan Hoa
phải học lớp Văn mới phải chứ. Với lớp tôi, vì tôi ở ngoại trú nên cũng ít được
mọi người chia sẻ sự kiện, tuy vậy tôi đã được chứng kiến và ngưỡng mộ hai mối
tình khởi thủy ở lớp tôi khá đẹp, đó là Lan - Đạt và Cúc - Đồng. Họ đã yêu nhau
thực sự, lấy nhau vì tình yêu… nhưng rồi lại chia tay đầy cay đắng. Đến giờ tôi
vẫn lấy làm tiếc cho họ. Chỉ còn đôi Vinh-Hiền là vẫn bền chặt (thế mà tôi thấy
bọn con trai lớp Văn nói là thằng Vinh yêu được cái Hiền vì sự thách đố? Thật
lạ kỳ?). Lớp tôi còn có một “ngôi sao” học giỏi xuất sắc, nói năng hùng biện,
nay là Phó hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV, tiến sĩ Vũ Đức Nghiệu. Không hiểu nó
có đọc những dòng hồi tưởng này của tôi không, mà chắc gì nó đã được trải
nghiệm nhiều “cung bậc” cảm xúc như tôi? Tôi nhớ Nghiệu là một chàng trai bé
nhỏ, lúc nào cũng tươi cười, tranh cãi bao giờ cũng đến cùng. Hồi ấy, tôi không
chú ý lắm đến đám con trai lớp mình. Chẳng phải vì “kiêu”, nhưng chỉ vì có rất
ít những đợt sinh hoạt chung như bọn lớp Văn, nên tôi không có cơ hội hiểu mọi
người. Đến nay, có một số chàng trai tôi vẫn nhớ đến nhưng 40 năm nay không hề
gặp lại: Tô Thành Trung, Hoàng Hải, Tiến “Tru taiet”…tôi đã hỏi han mọi người,
nhưng không ai biết rõ họ đã làm gì và đang ở đâu? Lớp tôi có Đồng Văn Duyệt đã
mất vì bệnh, còn lớp Văn nhiều hơn, những 5-6 người. Hồi gặp nhau năm 2006, mọi
người mừng rỡ nhiều một phần vì thấy anh chị em còn phong độ lắm, sống đến đây
đã là lãi lớn rồi. Con cái đều phương trưởng cả rồi. Anh Tuấn lớp trưởng lớp
Ngữ -không bao giờ dùng điện thoại di động, nói với tôi là muốn gặp anh ấy thì
gọi về nhà, có gặp vợ anh ấy thì nhắn lại, anh ấy sẽ gọi lại ngay… Tôi thấy
ngại nên cũng chưa bao giờ gọi cả. Hai anh em có cái ảnh chụp chung năm Hội
Khoa 2006 đẹp ra phết.
Tôi
không biết bây giờ khi đã chia thành 2 khoa riêng biệt, Khoa Văn và Khoa Ngôn
ngữ, sinh viên có được học kép như thời chúng tôi không. Nhưng có một điều chắc
chắn, thời chúng tôi, sinh viên và thầy cô gần gũi, trong sáng, thân thiết cảm
động hơn bây giờ nhiều. Người đời nói là tại thời thế nó vậy. Cho nên, tôi vẫn
mong sao “bao giờ cho đến ngày xưa” tuy con tôi thỉnh thoảng lại nhắc là kiểu
học của mẹ đã hết thời rồi, bây giờ chẳng ai để ý đến ai đâu.
Ừ, thì hết thời rồi, nhưng cái “tít” của cuốn
kỷ yếu thì chúng tôi vẫn bàn và vẫn muốn là: “sống mãi tuổi 17” cơ mà. K17 và
tuổi 17 vào đại học của chúng tôi đã là những kỷ niệm không bao giờ phai mờ. Không
bao giờ.
Minnesota, 20012
Bùi
Lan Hoa
(Ghi chú: Chả biết cái Hoa nhớ có nhầm không, chứ mình cũng học cô Hoàng, dạo đó nghe nói cô là bà xã của nhà văn Phạm Hổ)
Nguyễn Thông
Sống mãi thời … không thể quên!
Trả lờiXóaAi cũng có những quãng đời không thể quên; Thời „học trò“ là một quãng đời như thế.
Tôi cảm ơn nỗ lực của anh Nguyễn Thông và bài viết hay của chị Bùi Lan Hoa.
*
Bài viết gợi nhiều kỷ niệm cho người đọc, về Hà Nội, về một khúc Lịch sử, … Và điều cần ghi nhận là từ đây, có thể có „định hình“ mới cho topic „Dành cho K17“ chăng?
Điều muốn nói ngay là từ cách nhìn của „người đọc“, tôi luôn muốn biết thêm về tác giả. Tôi rất khoái Trang của anh Nguyễn Trọng Tạo thường giới thiệu người viết với ảnh chân dung: Đọc và nhìn chân dung người viết, người đọc sẽ có cảm giác và cảm nhận … gần hơn đấy.
Lý thú khác, của một người „ngụ cư“ Hà Nội là khi học đại học với các bạn đến từ nhiều vùng quê, tôi đã „phiên dịch“ tiếng Nghệ cho mấy bạn Hà Nội. Khi nghe anh bạn Nghệ (khá thân) kể về „con khải, cái trốc cúi, …“, mấy bạn Hà thường hỏi: Hắn nói gì vậy? Thực ra, tôi ở giữa Hà và Nghệ; Nghe và đoán thì hiểu dần thôi. (Kể cho vui).
*
Đang có tranh luận về „Triết học và triết lý giáo dục“ trên một diễn đàn. Đọc bài này của bạn Lan Hoa thấy có nhiều gợi mở cho suy nghĩ hơn.
Một chút cảm hoài THỜI ĐI HỌC,
Hơn ngàn câu chữ luận vu vơ.
„Lẩy“ lại như lời cảm ơn bạn.
*
Chắc phải viết nữa về Hà Nội; Xin chia sẻ với bác Thông một đoạn viết sau khi xem bức Hình „Người Phụ Nữ trước sứ quán Tàu“ trong cuộc biểu tình năm 2007 (Nay đã có thêm thông tin về Chị):
Hà Nội trong tôi
Nước Đức; Những ngày tháng Chạp 2007
Tôi yêu Hà Nội lắm, người ơi!
Yêu từng con phố, những cuộc đời...
Dù quen, dù lạ, dù chưa biết,
Đều như máu thịt ở trong tôi.
Hà Nội nuôi tôi sống những ngày,
Đạn bom tàn phá, gạo ăn vay;
Ngọn đèn đêm vắng soi tâm thức,
Tôi lớn khôn lên giữa đất trời.
Giòng máu ngàn năm vẫn cuộn dâng,
Lửa Đống Đa xưa, sóng Bạch Đằng,...
Mỗi tấc giang sơn là tấc máu,
Là hồn Dân tộc, sức Cha, Ông!
Dẫu có còn xa, dẫu mãi xa,
Hà Nội trong tôi vẫn chẳng nhoà;
Sống – nhịp lòng ta cùng Hà Nội,
Chết – hoà thân xác đất quê xưa!
Thân mến.
[„Tóc chị Hoài“ có phải của Tô Hoài? Tôi đọc trong „Tự luyện thi …“ là cuốn sách giáo khoa thời trước VNDCCH.
Lớp 5 hay 6 gì đó, tôi ngạc nhiên và nhớ các Thày trẻ mới từ „Tổng hợp Hà Nội“ về Trường cấp II đọc thơ Trần Dần: „Tôi đi giữa phố giữa nhà, …“ và những lời bình về „Là thi sỹ“ (nghe lỏm các Thày nói với nhau trong „nhà ăn tập thể“). Như vậy, trong chuyên ngành học, „văn học ngoài luồng“ vẫn „tồn tại“; không như người đọc bình thường phải „đọc chui“! – „Mới“ đấy; Cảm ơn.]
Bác Thông Cào dzui thiệt !
Trả lờiXóaCó cháu rồi mà vẫn cái...cái làm như còn teen lắm he he he
Bùi Lan Hoa quên chuyến đi Cà Mau với mình rồi sao? Lúc đó Cào không đi, chỉ có mình đi với 2 mụ văn và 1 mụ ngữ đó thôi. TQT
Trả lờiXóaHello! Do you use Twitter? I'd like to follow you if that would be okay. I'm absolutely enjoying
Trả lờiXóayour blog and look forward to new updates.
Here is my homepage :: arsenal transfer news cavani
Greate article. Keep writing such kind of information
Trả lờiXóaon your page. Im really impressed by your blog.
Hello there, You've done an excellent job. I will definitely digg it and in my opinion recommend to my friends. I'm sure they'll be benefited from this website.
Also visit my page latest chelsea transfer news