Thằng khùng
PHÙNG QUÁN
(viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân (không phải là nhà văn cùng tên) khi cùng ở trong tù)
*
“…Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình
không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội
chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng
dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm
chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh
ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi
ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó.
Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi.
Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách,
lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn
đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ
tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ
để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong
trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính,
nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người
anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều
lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ,
rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều
thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho
anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai
muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại
đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm
liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh
đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá
rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng
queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai
nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người
chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của
người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng
gỗ tạp sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm
gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một
khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên
áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất
cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh
ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chắp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống
tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại
cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong
hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu
thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt
vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc
của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người
anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một
niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét
tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm
rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng
vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người
này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc
đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần
trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị
nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc
sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân
xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú
nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây
mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai
người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không
quay lại:
- Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh
ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc
biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
- Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh
ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang
ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó
cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai
nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức
nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong
lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky
miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ
lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng
đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại
học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm
rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở
trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè
đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng
sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide
nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo
đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ
không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… –
những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly
trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống
sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co
giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,
chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước
mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi
liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói: – Tuân ở
lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ
rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như
viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than
viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN. Viết xong, anh ta hoàn
toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ
Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu. Giám thị hỏi: –
Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai
báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam. Mình nói: – Thưa cán
bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa
để xua đuổi bệnh tật và tà khí. Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha
cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là cha Chính Vinh, tức là linh mục Gioan
Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971) của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của
Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục
tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của cha Vinh để
chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm
gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật
bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ
đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người
Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội.
Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935,
thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ
phong linh mục ở Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại
Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ
thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên
cứ chào: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau
đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu
Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha
François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ
Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng
không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập,
không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho
Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De
Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế
của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự
trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe
dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ,
nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng
thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện
Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn
vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa
chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà
Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm
ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ
thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh
Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ
tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp
học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu
quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh
hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập
đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải
treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên
đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng
cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha
Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài.
Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng
dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ
này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại
học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ
mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và
là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt,
chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên
đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình
bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam
do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng
tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba
Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca
Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài
hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài
ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của
Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện
Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài
tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như
cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy
là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được
những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động
cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi
nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và
tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một
số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động
bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai
tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền
Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm.
Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo
đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn
xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn
tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và
nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không
thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm
vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ
Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12
tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ
tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên
tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi
nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng
Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân
khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế
ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng
sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát
sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong
từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương,
quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và
vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công
giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương
gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có
lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị
người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta
ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải
nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và
Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với
linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh
đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp:
“Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không
qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam,
xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính
quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh
đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của
mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi
thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu
khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại,
một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân
ngài.
TGP Hà Nội/BBT (Theo HĐGMVN)
Trần Văn Giang sưu tầm
(theo Bagan3's blog)
Ghi chú của chủ trang blog:
-Nhà thơ Nguyễn Tuân mà tác giả Phùng Quán nhắc ở lời giới thiệu ngắn gọn đầu truyện, theo tôi biết còn có bút danh là Tuân Nguyễn, công tác ở đài Tiếng nói Việt Nam, chồng của nhà thơ, nghệ sĩ đàn tranh Phương Thúy (con gái cụ Hoài Chân- Nguyễn Đức Phiên), bị bắt năm 1968 trong vụ đàn áp "văn nghệ sĩ trí thức chống đảng", bị tù nhiều năm và được thả mà không có xét xử gì.
-Từ lâu tôi đã nghe về tác phẩm này của lão gia Phùng Quán nhưng chưa có dịp đọc, cứ lần hồi mãi, may nhờ nhà báo Võ Văn Tạo thương tình cho cái đường dẫn. Xin cám ơn đồng nghiệp Tạo.
-Hồi còn học ở Hà Nội, tôi đã có lần vào thăm nhà thờ lớn, thấy có bức ảnh đức cha Vinh treo trên tường chỗ căn nhà học giáo lý, nay chả biết có còn không.
Nguyễn Thông
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaAnh Thông nói đúng rồi, đó là Tuân Nguyễn. Phùng Quán viết về Tuân Nguyễn trong'' Ba phút sự thật'' rất hay.Một người tài hoa...nhưng bạc mệnh.
Trả lờiXóaBac Thong cung sap thanh do hoi nhu thang cha Trieu dan Lanh -vi bac luon dang com cua no -loai than kinh ,dien khung chap chap.....
Trả lờiXóaTớ không thể cứ suốt ngày ngồi kiểm soát blog, khi mở máy mà thấy thì xóa thôi, còn chặn trước thì tớ không biết cách chặn.
XóaNhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaBậc thánh tử vì đạo chăng?Con người đa tài, chí nhân , chí thánh như vậy ta gập trong sự tuyên truyền bao nhiêu năm rồi hả bác Thông?Các bác nhà văn , nhà báo có thể đi tìm một đức tin mới như bác,bác Tân, bác Lập,chị Hà...nhưng tạo ra một bến mê mới là không cần thiết.Cứ xem ông bạn thanh cao, dám dấn thân,tâm hồn thi sĩ... NV Chiến của bác thật sự ngoài đời như thế nào là rõ về sự thông tin của bâc Thông thôi.Đâu cần thánh ý của ngoại đạo như đạo công giáo, các bậc hiền triết của ta đã dạy:
Trả lờiXóaTín ngôn bất mỹ,mỹ ngôn bất tín,thiện giả bất biện,biện giả bất thiện, trí giả bất bác, bác giả bất trí.
Thế đấy, bác ạ, cô giáo dạy văn tôi ở trường Chu văn An là vợ ông Phùng quán.Đôi lần, nếu không nói là khá nhiều tôi được hầu chuyện ông.Cũng như các nhà văn không được thỏa chí bình sinh ông hay cực đoan.Đôi khi thích nói quá.
Phùng Quán là thằng cực đoan phản động, nhân dân tiến bộ có nhiệm vụ phải đả kích và tiêu diệt nó .
XóaNhắn đồng chí dư luận viên (02:21): đói cho sạch, rách cho thơm, dừng vì mấy đồng bạc rách của Đảng mà bán rẻ linh hồn, xúc phạm đến những bậc trí giả đáng kính như Phùng Quán.
XóaGỬI: Nặc danh02:21 Ngày 30 tháng 1 năm 2013
XóaÔng chỉ biết sủa như vậy thôi à? Giáo trình của ban Tuyên giáo quá kém hay là trình độ tiếp thu của ông quá tệ!? - Chỉ biết được có 1 câu dùng trong mọi hoàn cảnh!
Ngậm ngùi cho một kiếp người tài danh. Cho dù Ngài và tôi không cùng giáo phái, nhưng tôi kính phục lòng kính chúa, yêu nước chân chính, đức tin sắt son của một tín đồ Thiên chúa như Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Tôi xin cúi đầu trước anh linh một CON NGƯỜI.
Trả lờiXóa"tôi kính phục lòng kính chúa yêu nước, đức tin son sắt của một tín đồ thiên chúa..." yêu nước nào vậy bác thainguyendinh?Bác nghĩ là nước Việt hay nước chúa mở rộng, cái nươc chúa mà vì nó giáo sĩ Alexandre Rhos cùng các giáo sĩ truyền đạo của tòa thánh đã do thám dẫn quân viễn chinh Pháp buộc cụ Hoàng Diệu treo cổ tự vẫn, cụ Nguyến tri Phương mở phanh vết thương chịu chết chứ không muốn nhìn nước Việt thành nước chúa?Nước nào vậy?Nước Việt hay nước chúa?Vì cái nước mà tổng thống Ngô dình Diệm quyết tâm thảm sát đồng bào mình để thực hiện ước mơ "công giáo tcàn tòng" sao?Bác hy vọng gì?ở nước ấy bác vẫn là"con chiên ghẻ"dù bác có đổi chủ nghĩa Marx-lê lấy ông Jezus.
XóaTôi không biết nhiều về Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh, nhưng căn cứ vào bài viết "Tấm gương... ) mà chủ trang đính kèm bài viết (tác giả Trần Văn Giang) thì đó là một người có tinh thần dân tộc khi nhìn vào hành động phản ứng với tướng Pháp De Lattre de Tassigni. Phàm là có tinh thần ấy, ắt là người yêu nước CHÂN CHÍNH, dù nước đó AI CAI TRỊ. Xin bác con cháu lạc hồng đọc lại. Còn người công giáo có đức tin vào Chúa, yêu Chúa, làm theo những điều Chúa răn trong Kinh Thánh cũng giống như những người theo đạo Phật, kính Phật, tin vào giáo lý nhà Phật, làm theo những điều Phật Tổ răn bảo trong Kinh Phật, hoặc các tín đồ theo các giáo phái khác như đạo Hồi, đạo Cao đài, Hòa Hảo... Dù là tín đồ nào cũng phải kính yêu chủ thuyết mà những đấng đề ra chủ thuyết đó răn dạy. Kính Chúa, kính Phật, sùng bái đấng tiên tri Mô-ha-mét, học Kinh Thánh, Kinh Phật, kinh Coran đều là học đức tin mà thôi. Những người cộng sản tin, kính chủ thuyết Mã Khắc Tư-Liệt ninh và lấy đó làm cứu cánh của lý tưởng cũng như Quốc dân đảng Trung Hoa dân quốc trước kia lấy chủ thuyết của bác sỹ Tôn Dật Tiên (Tam dân) làm kim chỉ nam vậy. Tôn giáo và đức tin, niềm yêu kính của một tín đồ vào các đấng siêu nhân là một trong những phẩm hạnh cao cả của họ. Tôi bàn luận theo hướng đó, bác con cháu lạc hồng ạ!
Xóaở tận cùng của sự khổ hạnh là tù đầy, nhưng tấm lòng thánh thiện của đức cha Vinh vẫn luôn tỏa sáng. thật đáng kính nể !
Trả lờiXóaKẻ cướp đường,g
Xóaiết người, hiếp dâm cũng chịu tù đày.Bác bình luận
Không a dua được không?O.K.
Bọn phản động Nhân Văn-Giai Phẩm bị cho vào ngục là Đảng ta đã khoan hồng lắm, đáng lẽ phải giết hết bọn chúng .
XóaCái đồ cầm đèn chạy trước ô tô, chưa cán cho bẹp dí là may lắm rồi .
'giết hết bọn chúng' 'cán cho bẹp dí' cứ làm đi, để rồi sau này có chui xuống cống như Gaddafi cũng bị lôi lên đấy.
XóaBọn Nhân Văn-Giai Phẩm là một lũ phản động
Trả lờiXóaMày (nặc danh 12:49) và thằng con cháu lạc hồng là thành viên của 500 dư luận viên do thành ủy phát hành. Về học thêm đi... Lộ quá!
XóaBọn Nhân Văn-Giai Phẩm là một lũ phản động . Đảng Cộng Sản đã đúng khi ra quyết định vô hiệu hóa bọn chúng, đáng lẽ Đảng phải tiêu diệt mới xứng đáng với tội lỗi của chúng .
XóaKhông biết đồng chí dư luận viên được trả bao nhiêu cho mỗi cái còm như thế này? Sao không kiếm nghề nào tử tế hơn mà làm.
XóaPhục vụ Đảng Cộng Sản là vinh quang .
XóaTôi định phản đối những comment như cũa [Nặc danh12:49 Ngày 29 tháng 1 năm 2013] bằng nick "Ẩn danh" nhưng tôi thấy làm như vậy không chính danh!
XóaVì vậy tôi phải dùng tài khoản thật của mình để comment dù mất công đăng nhập!
Đề nghị các "dư luận viên" dùng tài khoản thực để bình luận! chứ cứ sủa vu vơ mà không giám công khai tên tuổi thì xấu lắm! Làm Như vậy không ai phục và càng phản tác dụng.
Bon bất nhân nhìn vào gương sáng như nhìn vào mặt trời vây,chúng bị chói mắt.Do đó những ý kiến bất bình, phản đối câu chuyện trên đây là lẽ đương nhiên.Cám ơn nhà báo Nguyễn Thông đã cung cấp một câu chuyện giá trị.Ngày nào tôi cũng đôi lần ghé thăm blog của anh, nhưng câu chuyện trên làm chúng tôi khâm phục nhất.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaKẻ ví như ngu mà ăn nói xằng bậy như nặc danh 14:25 thì không phải chỉ có ngu,mà còn hơn thế. Như chó không dại mà cắn người thì là vết ngoài da,cũng vết ấy mà là chó dại thì phải tiêm phòng ngừa.Xác định cái đích cho kẻ điên,cung cấp lý lẽ cho gã khùng,lấy ngọn hoa đăng cho lũ bướm đèn, dùng mật ngọt cho bầy ruồi nhặng, bác Thông định dẫn dắt hay để bị dẫn dắt đến đâu đây?
Trả lờiXóa5điều cần có của kẻ sĩ bác Thông có nhớ hay không:cung, khoan, tín, mẫn , hằng?Sao lại để cho những kẻ như TLD, nặc danh 14:25 ngày 29 tháng 1 năm 2013 lợi dụng sở học của mình,lấy bóng mình mà tàng hiện yêu ngôn?
Lại gặp dư luận viên do thành ủy phát hành rồi
XóaCăn cứ vào ý tứ, lời văn thì hình như bác Làng việt quê mình "mắng oan" bác nặc danh 14:25 thì phải, bác ạ?
Trả lờiXóa+Bạn Nguyễn Hữu Viện(Triệu Dân Lành/Tỷ Dân Lành)!Sống ở Pháp,có chút học hành, nhưng Bạn đã làm cho chủ trang và
Trả lờiXóasố đông bạn đọc thất vọng và buồn lòng.Tiếc quá.Không biết phải nói thế nào với Bạn.
+Khi còn trẻ,mình không thích người theo Thiên Chúa Giáo.
Sau khi đọc các bài viết của Linh mục Nguyễn Viết Khai,Trương Bá Cần,Chân Tín;sống gần với Linh mục Nguyễn Ngọc Lan,định kiến ấy mình không còn.Tôn giáo nào cũng hướng con người đến chân thiện mỹ.Tín hữu,dĩ nhiên có kẻ xấu nhưng cũng lắm người tốt.Cuộc sống trong tù của Linh mục Nguyễn Văn Vinh được viết bởi Phùng Quán thật đáng
khâm phục:sức chịu đựng,thương yêu người,một lòng phụng kính Chúa.
+Một số Bạn còn cực đoan .Gần hết đời người,mình ngộ ra,nhiều việc, nhiều lúc, trong đúng có sai,trong sai có đúng.Còn 10 hôm nữa đến Tết.Vui vẻ.Tôn trọng nhau. Hay và tốt hơn.
Theo ông Kiều Xuân Long, ông Trần Xuân Bách rất ấn tượng khi thấy không có sinh viên nào nói đến cơm áo gạo tiền cho dù lúc đó các em rất thiếu thốn. Sinh viên đặt những câu hỏi, nêu những vấn đề ở tầm quốc tế, quốc gia, cho thấy các em rất quan tâm tới chính trị và tình hình đất nước. Bằng một phong thái nhẹ nhàng, ông Trần Xuân Bách phân tích tình hình Liên Xô và Đông Âu với sinh viên. Ông nói: “Xu hướng thời đại giờ đây là phải chống độc đoán. Xã hội muốn phát triển thì phải có đấu tranh giữa các mặt đối lập. Muốn có đấu tranh, phải phát huy dân chủ, muốn dân chủ thì phải tôn trọng nhân quyền. Mô hình các nước xã hội chủ nghĩa thực chất là đã không tuân thủ các nguyên tắc này. Hôm nay, chú chỉ nói với các cháu xu hướng của thời đại, của thế giới. Các cháu lớn rồi, tự các cháu suy nghĩ và quyết định”. BTC
Trả lờiXóaĐọc BTC của Huy Đức mới thấy tội đồ của NVL với dân tộc. Con cháu nhiều đời sau này của NVL sẽ bị quả báo.
Trả lờiXóaTội của Bác Nguyễn Thông to lắm! Bác toàn đi gợi lại những chuyện buồn của xã hội ta, mà những câu chuyện buồn của xã hội ta rồi thể nào cũng bị "mang màu sắc chính trị".
Trả lờiXóaTOlon muốn gặp Big Cock không?
Xóa"con chau lac hong"ư?may xưng dang ư?
Trả lờiXóaLinh mục NVV yêu thương đồng loại như lời Chúa dạy thật đáng kính phục.Bọn bất nhân chỉ biết hãm hại đồng loại nên làm sao chúng biết chia động từ YÊU!
Trả lờiXóaĐạo CS dạy thế nào mà sản sinh những quý ngài đáng kHinh nhiều không kể xiết nên chả trách chúng xem giáo dân như thù địch.
Trả lờiXóaNhà thờ lớn Hà nội được xây dựng trên khuôn viên của chùa Báo Thiên Tự.Chùa Báo Thiên Tự là quốc tự của nước Việt được vua Lý thánh Tông cho xây năm 1057, là một trong 4 bảo vật nước Việt-Đại Việt Tứ Khí: chùa báo Thiên, tháp Phổ minh,Chuông Qui Điền, chùa Quỳnh Lâm-cho đến thế kỷ 19 là nơi hàng năm cử hành các nghi lễ phật giáo cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.Chùa là nơi hội tụ LINH KHÍ THĂNG LONG.
Trả lờiXóaNăm 1873, Hà nội thất thủ lần thứ nhất .Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết.Tướng Pháp Francis Garnier khi chiếm thành trao lại toàn bộ khu vực chùa tháp cho linh mục Paul-francois Puginier để trả công ông ta đã vẽ sơ đồ phòng thủ Hà nội và làm thông ngôn.Ông ta dựng một căn nhà gỗ ở vườn của chùa.Hoàng Kế Viêm và quân Cờ đen phản
công.Garnier đền tội.Cố đạo Paul chạy trốn ,được các nhà sư chùa bên cạnh do lòng nhân từ cứu nên thoát chết.
Hà nội thất thủ lần 2,Khâm sai Đai thần Nguyễn tri Phương sống chết theo thành.Cố đạo Paul trở lại.là người thông hiểu kinh dịch, được sự giúp đỡ của thày địa lý trung quốc,ông ta xin công sứ Bonnal phá chùa xây nhà thờ để yểm.Nhà thờ lớn Hà nội ra đời.
Nhứng tên việt gian đồng lõa với tên Cao biền phương Tây:Nguyến hữu Độ tên phản bọi Hoàng Diệu
Hoàng cao Khải tên việt gian đào mồ anh hùng dân tộc Phan Đình phùng...
Con cháu bọn chúng đang chửi bới trên blog bác Thông đấy
Những điều bác con cháu lạc hồng "thông kim bác cổ" trên bọn tôi biết, biết rất rõ. Bác nói điều ấy làm gì. Chỉ xem vào bài của chủ trang, chúng ta nên có một cái nhìn nhân ái hơn đi. Nếu xét tội thì các cha đạo người Việt: Hoàng Quỳnh của xứ Phát Diệm, cha Lê Hữu Từ xứ Bùi Chu ngày xưa thì cái ác còn hơn cả quỷ Sa-tăng . Các cha các ôn này còn lận trong áo chùng thâm khấu tiểu liên Xten dẫn quân đi càn quét các vùng Kim Sơn, Xuân Trường - Giao Thủy. Hải Hậu, bắn giết, cướp bóc, hãm hiếp đồng bào thì tội của các tên này đáng ngàn lần tùng xẻo. Trong hàng triệu giáo dân thì chỉ có dăm tên Judas. Trong hàng trăm triệu con Lạc cháu Hồng thì chỉ dăm tên Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ... mà thôi. Nếu chúa Nguyễn Ánh không cầu viện (trong lúc Pháp đang tìm nguyên cớ để đô hộ) thì Bá Đa Lộc (Pier Joseph Georges) có làm cầu nối để Pháp nổ súng trên bán đảo Sơn Trà mở màn cho Pháp thống trị ngót tám thập niên không? Nếu triều Nguyễn không ký các hòa ước, hèn nhược bán nước thì các Tổng đốc Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, các hào kiệt Nguyễn Trung Trực, Hoàng Hoa Thám, ... và hàng triệu con dân nước Việt có phải bỏ mình cứu nước không? Tại sao ta lại hẹp hòi, định kiến theo kiểu cách giáo phái chủ nghĩa thế nhỉ? Tôi giống bác TMĐ lúc trẻ không mấy thiện cảm về nười công giáo. Chuyện là thế này: Thôn Xá Thị canh thôn tôi, khác xã có Nhà thờ. Tên cha đạo theo Pháp lập tề, rào làng, lập bốt đưa lính về chống lại Chính phủ. Vùng tôi ở dạo ấy là vùng xôi đỗ (làng tự do và làng tề giáp ranh). Nó tự do càn quét, bắn giết các làng khác. Chính phủ chủ trương nhổ cái bốt ấy nhưng nó lại núp bóng trong Nhà thờ. Ta triệt nó vì nó là cái gai trên con đường liên lạc giữa các vùng tự do của ta. Bộ đội tỉnh mang vũ khí trên người nhưng không được nổ súng. Lệnh của trên là chỉ gọi loa binh vận, gọi hàng theo chính sách tôn giáo. Bọn lính thì cố thủ trong Nhà thờ bắn ra. Cha cố cho đàn bà khỏa thân, mang tro, ớt bột ném vào bộ đội, dùng liềm, cuốc đánh bộ đội. Mẹ tôi là du kích cứu thương kể: khi ta chiếm xong bốt, vào thu don chiến trường, có anh bộ đội bị liềm bổ phọt cả óc. Mẹ tôi vác các anh ra mà óc còn chảy xuống vai. Cái làng ấy năm 1954 di cư hết vào miền Nam, bây giờ chỉ có Nhà thờ bỏ hoang mà không có giáo dân và cha xứ vì toàn dân lương thôn khác đến định cư. Người Việt ta vốn dĩ khoan dung. Giặc Tàu thua trận còn cấp thuyền cấp lương cho tù binh về nước (Lê Lợi), Mỹ thua bây giờ bình thường hóa quan hệ. Tại sao người Việt ta, những con cháu Lạc Hồng do chiến tranh xô đẩy làm hai chiến tuyến sao không bắt tay nhau xóa bỏ hận thù mà hòa hợp xây nước nhà thịnh vượng mà suốt ngày đối nghịch nuôi thù, ngậm oán.
Trả lờiXóaTôi viết những dòng này chỉ là tỏ tấm lòng của mình. Chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm. Cái gì mất thì đã mất, sao còn lấy lại được nữa. Mong các bác còm viên dịu lòng để cho tình thân ái chan hòa, cho xuân mới này chỉ còn niềm vui và tình thương tràn đầy trên đất Việt vốn đã "chịu nhiều thương đau" (Nguyễn Đình Thi - Bài thơ Hắc Hải).
Tôi không trở lại còm về vấn đề này nữa. Mong sự thân ái trở về với trang nhà của bác Nguyễn Thông thân mến của tất cả chúng ta.
OK!
XóaTôi đã đọc 3 lần tác phẩm "Ba Phút Sự Thật" của Phùng Quán và cũng đọc kỹ về cuộc đời của Phùng Quán! Tôi kính trọng Phùng Quán và khâm phục nhân cách cao đẹp và tấm lòng bao dung của ông!
Trả lờiXóaMột hình ành hoàn toàn đối lập với ông cậu của ông (Tố Hữu).
"Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu"
Vì vậy tôi tin những gì Ông Quán viết!
Nam mô adiđà phật.Bác thainguyendinh, bác TMD đã mở lòng,tôi xin kể nốt câu truyện bao đời ẩn ức trong gia đình con phật làng Tiên thị huyện Thọ xương:
Trả lờiXóa1884 khi phá chùa Báo Thiên,quan lại triều đình Nguyễn hứu Độ, Hoàng cao khải,Nguyễn xuan Ruẩn cùng linh mục Puginier,tướng công binh Genie, công sứ Pháp Bonnal,Harmand cùng kỳ mục làng chứng kiến lế động thổ.Sư trụ trì chùa Bà Đá bên cạnh, người đã giấu Puginier dưới bệ thờ Phật thoát khỏi sự truy nã của quân Hoàng kế Viêm khi trước, ôm bậc tam cấp chùa khóc đổ máu mắt:Mô phật, con là con nhà phật,sao lại cứu kẻ giờ đây cướp đất Phật?
Trụ trì được một người đỡ dậy,đó là nhà sư tu ở chùa Báo Thiên.Thầy dạy rằng:Cứu một mang người hơn xây bảy tháp phù đồ.Chúng ta làm theo lời Phật dạy.Đất Phật đâu ở kia?
-Thầy chỉ vào chùa-Đất phật ở trong tâm.Thầy chỉ vào tim.
Bác con cháu lạc hồng có biết các vị lãnh đạo nước Việt có phải con cháu nhà phật không?
Trả lờiXóaMô phật nếu trong tim họ có phật thì...
Trả lờiXóaLoài người thuần hóa thành công nhiều loài cầm thú hoang dã như chó, ngựa, trâu, bò... thậm chí cả gấu, hổ, báo, voi, sư tử... có thể huấn luyện làm xiếc. Nhưng không thể thuần hóa những con chó điên - bọn chỉ biết còn đảng còn mình
Trả lờiXóaXin ngỏ lời cùng hai bạn ND21:02 và ND21:27 suy nghĩ của mình:các vị lãnh đạo nước Việt hiện nay thờ đạo cộng sản của 3 ông người phương tây :Marx, Engel, Lenin.Học thuyết của 3 ông này gần gũi ông Jezus thiên chúa giáo bao nhiêu thì xa lạ với Phật giáo-quốc đạo cổ xưa của người Việt bấy nhiêu-hai bạn ạ.Hơn nữa ông Marx và ông Jezus đều là người do thái,luận thuyết của họ đều xuất hiện từ đạo Do thái cổ chỉ phục vụ cho Ixraen chứ liên quan gì đến tộc việt đâu.Các bạn chắc đã đọc chuyện tiếu lâm về bộ râu ông Marx, câu ca dao:chúa Jezus nằm trong hang đá thò cu ra ngoài;con chó nó tưởng củ khoai;Nó đớp một cái thôi rồi....để biết tình cảm người việt dành cho các ông ấy rồi chứ?
Trả lờiXóaBạn Chọng Nú bạn chắc dòng dõi đại địa chủ, đại việt gian, đại quan lại như Nguyễn hữu Độ,Hoàng cao Khải,Ngô đình diệm, Nguyễn văn thiệu nên bạn có thói quen coi người Việt như chó?à tôi cần phải nói với bạn Thiệu Diệm
cũng là người công giáo."Hồi đầu thị ngạn"là câu Phật dạy dành cho bạn đấy.Nếu bạn không sửa đổi , bạn sẽ xuống ngục A Tỳ, đầu thai sang kiếp chó.Để đén lúc con cháu tôi dọn bẩn lại phải gọi bạn:êu, êu , tắc , tắc...thì...Đáng lo cho bạn lắm.