1. Rẽ vào lối nhựa
gọi là hẻm nhưng khá thông thoáng rộng rãi trên đường Cộng Hòa, P.13, Q.Tân
Bình (TP.HCM), tôi hỏi nhà chị Kết, hầu như ai cũng biết, Họ còn chỉ dẫn tường
tận nhà bà Kết có xưởng may thêu, sản xuất rôm rả nhộn nhịp lắm. Thế thì chả trật
chỗ nào bởi chị Kết từng du học ở Triều Tiên về ngành dệt, một chuyên gia cả đời
chỉ gắn bó với dệt may, vải vóc. Và điều quan trọng, người tôi gặp là một trong
những em gái của anh hùng liệt sĩ Hoàng Kim Giao- niềm tự hào của thành phố cảng
Hải Phòng quê hương.
Cuộc trò chuyện đã qua cũng hơi lâu nhưng tôi còn nhớ rõ mồn
một. Chị Hoàng Ngọc Kết kể cho tôi nghe về anh Giao trong nỗi xúc động. Chuyện xảy
ra từ mấy chục năm trước mà như đang hiển hiện nhãn tiền. Người thanh niên sĩ
quan trẻ ấy dường vẫn quanh quất đâu đây, phía sau tấm ảnh, khuôn mặt trẻ trung
mà nghiêm nghị kia. Sau khi gia đình và Thành đoàn Hải Phòng lập hồ sơ trình
lên cơ quan chức năng, năm 2009 liệt sĩ Hoàng Kim Giao được Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân. Sau bao năm bị lãng quên, người anh hùng ra đi khi tròn 27 tuổi đã trở về,
thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ cả nước, hôm nay và mai sau.
Anh hùng liệt sĩ Hoàng Kim Giao (1941-1968)
Tưởng cũng nên nhắc lại chút ít về anh trước khi cùng nhau đọc
những lá thư đậm tình người, tình yêu nước, chất chứa bóng dáng lịch sử và âm
vang thời đại. Hoàng Kim Giao cùng lứa tuổi với nhà thơ Phạm Tiến Duật, sinh
năm 1941. Anh đã tốt nghiệp hai trường: Đại học Tổng hợp và Đại học Bách khoa
Hà Nội, một sĩ quan trẻ giỏi giang đầy triển vọng của Cục Nghiên cứu kỹ thuật
(nay là Viện Kỹ thuật quân sự), Bộ Quốc phòng. Anh là một trong những tác giả
công trình nghiên cứu chống phá thủy lôi và bom từ trường, được giải thưởng Hồ
Chí Minh đợt 1 (năm 1996). Trong chuyến công tác tại tuyến lửa khu 4 cuối năm
1968, trên con đường ác liệt 15A, gần tọa độ lửa Truông Bồn, lúc anh áp sát, quả
bom từ trường loại hiện đại nhất, mới nhất mà bọn Mỹ vừa đưa vào sử dụng đã bất
ngờ phát nổ, thân thể anh và đồng đội Lương Văn Tín tan vào bụi đất, anh ra đi
khi vừa qua tuổi 27 đẹp đẽ có 4 ngày.
Chị Kết lật giở những lá thư. Tôi thầm cảm phục cô em gái của
người anh hùng. Hầu như thư nào anh Giao gửi cho chị, cho gia đình (bố mẹ, vợ,
các em) cũng đều được chị gìn giữ rất cẩn thận, giờ lại càng nâng niu quý trọng
như những báu vật. Thư tín thời chiến tranh, đâu phải chỉ thư tình, trải qua
bao tao loạn, vật đổi sao dời, vẫn nguyên vẹn thế kia thì quý lắm. Người viết
có tình (đương nhiên rồi) và người lưu giữ cũng phải dạng cực kỳ cẩn thận, tình
cảm. Tôi biết điều này cũng một phần do hồi phổ thông tôi là bạn học cùng chị
Hoàng Liên Thái, một em gái khác của anh Giao. Cả hai chị Kết, Thái cũng như
nhiều đồng đội khác sát cánh bên anh Giao suốt bao năm, kể cả hồi khó khăn cơ cực
nhất, chăm chút giữ gìn từng tí kỷ vật của người đã khuất, và cuối cùng sự công
phu ấy đã được đáp đền. Chứ sao. Bởi tôi thấy cần nhắc lại điều, sau nhiều năm
mòn mỏi chờ sự đánh giá xứng đáng cho con trai trong vô vọng, hai cụ thân sinh
anh Giao (đều lão thành cách mạng) khuất núi đem theo niềm hy vọng hay tuyệt vọng
gì đó tôi không rõ. Chính những người em gái và đồng đội đã trả lại cho anh điều
anh xứng đáng nhận, cao hơn nữa là sự tưởng nhớ, biết ơn của dân tộc, nhân dân
với người hy sinh vì đất nước.
Chàng thanh niên tuổi ngoài đôi mươi Hoàng Kim Giao đã viết
gì? Trên những tờ giấy pơ luya mỏng manh, hoặc giấy xé vội ra từ cuốn sổ công
tác mà tôi có vinh hạnh cầm trên tay, anh đã bộc bạch hết nỗi lòng mình, người
trai thời loạn. Có lúc buồn vì sự xa vắng, nhớ nhung; lúc dằn vặt bởi việc gì
đó chưa hài lòng; lúc khao khát cả những điều bình thường nhất… nhưng ôm trùm
trong những trang giấy, phía sau nét chữ nghiêng mực xanh Cửu Long hoặc Hồng Hà
kia là tình cảm yêu thương vô bờ bến, sự trải lòng chân thật, những suy nghĩ
trong sáng về lý tưởng, hạnh phúc, niềm vui, sự cống hiến, sự hy sinh. Đọc thư
Hoàng Kim Giao, ta thêm hiểu rằng thời chiến tranh tưởng đã xa ngái ấy, đất nước
có biết bao người con đáng quý, cao đẹp biết chừng nào.
2. Lá thư đầu
tiên chị Kết đưa tôi xem là thư anh Hoàng Kim Giao gửi về cho bố mẹ (theo cách
gọi của gia đình là cậu mợ). Bố anh từng giữ chức Tham mưu trưởng đầu tiên của
Thành đội Hải Phòng, sau làm Giám đốc nhà máy cơ khí Duyên Hải, một trong 3 ngọn
cờ đầu phong trào thi đua ở miền Bắc những năm 60 “Cờ Ba Nhất, sóng Duyên Hải,
gió Đại Phong”. Hồi bé, chính tôi cũng đôi lần nhìn thấy ông khi hai bác về
thăm lũ con nơi sơ tán ở làng Trà Phương quê tôi. Kính nhi viễn chi thôi bởi
lúc đó họ là nhân vật vĩ đại lắm. Nhưng chả hiểu sao tôi lại chăm chú vào bức
thư anh trai gửi cô em gái đang học đại học ở Triều Tiên, có gì đó cứ lôi mắt tôi
theo từng chữ từng dòng. Anh Giao viết:
“…Hôm nay 25.11 âm lịch
rồi, trong nước mới là những ngày lạnh đầu năm. Năm nay rét đến chậm, còn chỗ
em học tập có lẽ đã có tuyết rồi em nhỉ. Lần đầu thấy tuyết em có vui không? Mới
là những ngày rét đầu tiên nhưng ở miền Bắc rét lắm. Ước gì đừng có mùa rét thì
tốt biết bao. Bởi sẽ có nhiều gia đình nghèo bị rét lắm, cảnh các gia đình sơ
tán, quần áo thiếu thốn, những ngày rét buốt này, các em nhỏ phải sống xa gia
đình trong những khu rừng heo hút hoặc ở tạm những nơi sơ tán cái rét càng rét
hơn”.
Đọc đến đây, thú thực tôi bất giác thấy ớn lạnh, như có luồng
gió buốt chạy dọc sống lưng. Có thể một phần tôi đã sống qua chính những ngày
đó khi đã hơn 10 tuổi, nhưng cũng có thể do cái cảm giác đã lâu, lâu lắm mình
không gặp được mẫu người sống quên mình chỉ nghĩ đến người khác, mà hồi ấy người
như anh Giao thì sẵn vô cùng. Họ đúng là anh bộ đội cụ Hồ truyền thống, lớp
thanh niên tiêu biểu của thời đại đánh giặc. Yêu thương và khâm phục các anh.
Đoạn tiếp theo lá thư nói rõ điều ấy:
“Năm nay do chiến
tranh thiếu thốn các anh bộ đội không có chăn bông nữa mà đắp bằng chăn dạ Nam Định mỏng.
Anh đã nằm thử tấm chăn đó, rét lắm em ạ. Các bạn của em trong nước cũng vậy.
Hãy suy nghĩ về những điều đó, suy nghĩ không phải rồi để tự trách móc mình,
sao mình không được chịu thay cho mọi người những khó khăn đó. Không dễ gì ai
cho em chịu thay đâu”.
Là một sĩ quan trẻ được học hành bài bản, có trình độ cao,
hiểu biết sâu sắc về cuộc chiến đấu ác liệt mà dân tộc đang trải qua, anh Hoàng
Kim Giao có lúc tiên cảm khá rõ kết cục cá nhân với sự bình tĩnh, bình thản
đáng khâm phục. Trong nhiều lá thư cho vợ (chị Nguyễn Thị Lan), cho em gái (chị
Kết, chị Thái) anh từng nhắc đi nhắc lại điều “Ngày tháng qua đi, có lẽ không bao giờ anh còn được ăn tết với gia đình
nữa, không bao giờ được gặp em nữa.Nhưng dù cho ngày tháng trôi qua và dù khói
lửa của chiến tranh có tàn phá gia đình ta, dù anh có thể không bao giờ gặp lại
em, thì hình ảnh em với ngọn lửa ấm áp của đêm giao thừa không bao giờ mờ nhạt,
giá lạnh trong anh. Chiến tranh sẽ còn khốc liệt và “càng về sáng, trời càng lạnh”
nhưng dù trong trường hợp nào anh cũng sẽ vì nguồn vui, vì hạnh phúc của mọi
gia đình chiến đấu đến hơi thở cuối cùng” (thư viết ngày 22.12.1965, gửi em
gái Kết).
Làm trai thời loạn, Hoàng Kim Giao đã xác định hạnh phúc của
mỗi cá nhân không thể tách rời cuộc chiến đấu của dân tộc. Anh yêu chị Lan và cả
hai xây đắp một tình yêu rất đẹp. Cưới nhau rồi vẫn cảnh vợ chồng ngâu, anh vẫn
đi biền biệt, rong ruổi trên những cung đường khu 4 để săn đuổi bom thù, tìm ra
cách chống lại chúng hiệu quả nhất. Đến khi anh hy sinh, anh chị vẫn chưa kịp
có con, nhẩm tính lại thời gian hai vợ chồng bên nhau chỉ chốc nhát ngắn ngủi.
Chị Hoàng Liên Thái em gái anh kể lại: Năm 1967 chị Lan học đại học, trường sơ
tán về Hưng Yên, ở nhà dân. Tranh thủ ngày nghỉ, anh đạp xe từ Hà Nội đến thăm
vợ. Đêm nghỉ ở Hưng Yên, do một số phong tục tập quán của người địa phương nên
anh phải ngủ nhờ giường anh lớp trưởng. Còn chị đêm ấy cũng trằn trọc nằm bên
người bạn gái cùng lớp chứ không phải bên chồng. Chuyện thật mà ngỡ như đùa. Lại
có lần khác, tranh thủ đơn vị cho nghỉ vài tiếng đồng hồ khi vợ lên thăm (chị Lan
phải đạp xe mấy chục cây số), anh mướn một phòng nghỉ trên đường Phùng Hưng. Vợ
chồng gặp nhau chưa kịp hàn huyên thì còi báo động hú vang, máy bay Mỹ đã réo
trên đầu, anh phải vội chia tay trở về đơn vị, chị Lan lại một mình với chiếc
xe đạp trở về trên đường đê Văn Giang vắng lặng, đi suốt đêm, gần sáng mới tới
trường. Kể đến đó, chị Thái bùi ngùi kết luận: chiến tranh đã làm chao đảo bao
nhiêu số phận, trong đó có anh chị tôi.
Lễ truy điệu liệt sĩ Hoàng Kim Giao tại Viện kỹ thuật quân sự, tháng 1.1969
Những lá thư anh Giao gửi chị Lan, kể cả khi đang yêu nhau lẫn
khi đã cưới luôn thấm đẫm tình yêu thời chiến. Anh yêu chị nồng nàn, bằng tình
yêu của người chiến sĩ. Tôi lẩn mẩn giở lá thư anh đề nắn nót ngày viết là
14.9.1967 gửi về từ tuyến lửa khu 4: “Em
thân yêu. Đi không kịp nói gì với em, không ngờ chúng ta lại phải xa nhau. Ngày
đêm mong tin em, càng xa em càng thấy nhớ thương em. Càng khó khăn gian khổ,
anh càng thấy quý trọng những ngày tháng gần nhau. Anh tin rằng dù xa nhau rất
lâu chúng ta cũng không để mất mát gì. Ngược lại, tình cảm yêu thương của chúng
ta sẽ lớn lên theo ngày tháng, và ngày sum họp với tình yêu đã được tháng ngày
tôi luyện. Chúng ta sẽ bù đắp lại được tất cả, phải không em. Anh nghĩ nhiều đến
ngày sum họp, những đêm khuya anh chợt rùng mình thấy ớn lạnh sống lưng. Khi
đó, ý nghĩ duy nhất để sưởi nóng trái tim anh là tình yêu quê hương, gia đình
và em. Đừng buồn và đừng khóc em nhé. Lúc nào anh cũng ở bên em, anh mong rằng
mỗi bước anh đi không bao giờ anh nghe thấy tiếng em khóc. Những giọt nước mắt
yêu thương dành để cho lúc gặp nhau”. Đọc những dòng này, tôi chợt nhớ câu
thơ nổi tiếng của nhà thơ Nam Hà (còn có bút danh Nguyễn Thành Vân): Xa nhau không hề rơi nước mắt/Nước mắt để
dành cho ngày gặp mặt. Thời đó, thanh niên đã sống và yêu nhau như thế đấy,
không phải chỉ đơn lẻ anh Giao, hoặc những người nhà văn Nam Hà gặp gỡ mà là
hàng triệu, hàng triệu bạn trẻ. Tất cả đã hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc thật
tự nguyện, sáng trong.
3. Chị Kết cho
tôi xem lá thư cuối cùng của anh Hoàng Kim Giao. Đó là bức thư khá dài anh viết
gửi bố mẹ đề ngày 10.11.1968 (anh Giao hy sinh ngày 29.12.1968). Thời điểm này
(lúc viết thư) được coi là đỉnh điểm của sự ác liệt trong cuộc chiến đấu chống
lại bọn giặc trời Mỹ. Nên biết rằng tuy tổng thống Mỹ L.Johnson ngày 1.11.1968
tuyên bố ngưng ném bom hoàn toàn miền Bắc nhưng sau chấm mốc thời gian đó trên
những ngả đường khu 4 vẫn dày đặc bom nổ chậm, nhất là bom từ trường. Tuyến đường
tiếp viện cho chiến trường miền Nam
qua các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình còn nhiều gián đoạn. Từ cuối tháng 9,
anh Hoàng Kim Giao đã được Cục Nghiên cứu kỹ thuật phân công dẫn đầu một đoàn
đông đảo cán bộ chiến sĩ của Cục vào thực địa, vừa phá bom, vừa nghiên cứu những
loại vũ khí mới nhất mà kẻ thù mới tung ra để tìm cách vô hiệu chúng. Nói như
nhà thơ Phạm Tiến Duật - người lăn lộn bám trụ Trường Sơn và vùng đất Nghệ Tĩnh
nóng bỏng này suốt bao năm, đã viết cho chị Hoàng Liên Thái trong một lá thư
khi ông còn sống, rằng “công việc khoa học của sĩ quan trẻ Hoàng Kim Giao thuộc
loại khó nhất lúc bấy giờ: chống lại khoa học kỹ thuật siêu cường của Mỹ và một
số nước khác”. Theo tổng kết của Viện Kỹ thuật quân sự (hậu thân của Cục Nghiên
cứu kỹ thuật), liệt sĩ Hoàng Kim Giao không chỉ trực tiếp phá 72 quả bom nổ chậm,
trong đó có 42 quả bom từ trường hiện đại, mà còn đóng góp rất quan trọng vào
việc nghiên cứu, thực hiện thành công đề tài khoa học ngay giữa chiến trường đầy
bom đạn.
Lại quay về với lá thư cuối cùng. Thư rằng: “Cậu mợ kính yêu. Cùng đi với con còn có 5 đồng
chí chiến sĩ nữa. Đi để thu thập chiến lợi phẩm và phá bom nổ chậm. Ở đây có những
quãng chỉ 2km mà địch trút xuống 5.000 quả bom. Có những lúc chúng con phải phá
bom mở đường ở các trọng điểm đánh phá trên bộ, dưới làn bom đạn dày đặc của
máy bay Mỹ. Bị sức ép nhiều lần, anh em thương vong gần hết, nhưng con của cậu
mợ vẫn vững vàng tổ chức các đồng chí đảng viên gan dạ nhất phá sạch bom đạn giặc,
cho xe thông đúng 12 giờ kể từ sau lệnh ngừng bắn… Dù đứng giữa bãi bom của địch,
hay dưới làn mưa đạn máy bay, con của cậu mợ vẫn vững vàng tiến lên phía trước.
Cậu mợ ạ, ở đây chuyện sống chết đặt ra không phải từng ngày, mà từng giờ một.
Cậu mợ và các em con có biết con sẽ thế nào không, nếu quả bom nổ? Những lúc đứng
giữa cảnh chết chóc hoang tàn đó, con nghĩ nhiều đến hạnh phúc gia đình, nghĩ tới
ngày sum họp, nghĩ tới những ngày hòa bình, và con ước mơ ngày về gặp mặt cậu mợ
và các em con. Con luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để Tết có thể về nhà với
gia đình. Ngày ấy nhất định sẽ tới”.
Câu kết lá thư gửi cho bố mẹ, dường như anh viết trong nỗi
dùng dằng, báo hiệu một điều gì đó mà anh chả tiện nói ra, dễ làm phiền lòng
song thân: “Thôi, con sắp phải đi rồi…”.
Sau dấu 3 chấm ấy là cõi vô biên, anh đã lường trước được như vậy?
Đọc đến đó, mắt tôi nhòe đi. Anh, người sĩ quan trẻ tài
năng, tâm hồn tràn ngập yêu thương đã ra đi ở tuổi 27 căng tràn nhựa sống, tan biến
vào đất đai, cỏ cây đất nước. Hôm vừa rồi bạn tôi, nhà báo Xuân Ba đi Truông Bồn
viếng mộ 13 nữ TNXP, tôi gọi điện định nhờ anh ráng rướn vài bước chân ghé qua
thắp giùm nén nhang trên mộ anh Giao cách đó vài trăm mét nhưng không liên lạc
được, cứ tiếc mãi.
Để có nền hòa bình, độc lập tự do hôm nay, cái giá phải trả
quá đắt, mà đắt nhất là chúng ta vĩnh viễn mất đi những con người cao đẹp, tài
hoa như thế. Tự dưng trong tôi dậy niềm khao khát, mong sao TP.Hải Phòng sớm có
con đường mang tên anh hùng liệt sĩ Hoàng Kim Giao.
Chả biết những nhà lãnh đạo chính quyền Hải Phòng có nghĩ như vậy không?
Tháng mưa 7.2012
N.T
Vậy là hôm trước vì ý do gì đó anh định thắp nén hương nhưng tạm dừng, và hôm nay anh đã thắp. Cám ơn Thông.
Trả lờiXóaCám ơn anh Toàn. Hôm trước mình phải rụt lại vì theo nguyên tắc phải đợi báo nhà (TN) đăng trước. Tuy nhiên đất đai báo nhà hạn hẹp quá, cắt gần một nửa, nên mình đăng lại nguyên văn.
Xóa@ Thân gởi bác chủ nhà Nguyễn Thông
Trả lờiXóaNGHĨ GÌ ? LÀM GÌ vào Ngày 27 tháng 7 - Ngày Thương binh Liệt sĩ
==================
Không có Ngày Thương binh Liệt sĩ
Lấy gì bọn Tim đen mỏ đỏ đọc diễn văn
Kể lu loa công ơn trời biển của Đảng với Nhăn Răng !
Chỉ lũ Xã hội Đen vui du hí thỏai mái hết ga thôi
Còn Thương binh các anh đau nhức lắm
Bao nhiêu năm vết thương tàn tật
Đau nhức đến cuối trăm năm !
Ngày nào cũng đi khám bệnh viện
Phụ cấp Thương binh đâu có đủ tiền!
Đành phải bỏ tiền chữa trị cho mau...
*
Thương đau nhất Mẹ Việt Nam Anh hùng
Nhớ nhung đàn con sinh ra thành Tử sĩ - Liệt sĩ
Bỏ xác trên Khe Sanh – Cổ thành Quảng Trị
Nước mắt Mẹ Việt Nam cạn dần trong mất trí
Mẹ thương nhớ người Anh làm lính Miền Nam....
CHẾT dưới mồ vô danh hay SỐNG phiêu bạt ĐẤT ÂU – MỸ phương nào ?
*
Tổ chức Ngày Thương binh Liệt sĩ
100 đồng chi tiêu 99 đồng rơi vào túi quan đỏ tham !
Sau đó là phòng trà – bia ôm – quán bar « ghế »chân ngắn « ghế » chân dài
Lũ tim đen mỏ đỏ chọn sống đục sống nhục
Như bầy kên kên kền kền rỉa thịt hút máu
Bọn tham nhũng bề ngòai chễm chệ hào nhoáng bệ vệ
Nhưng chúng sống đích thực sống đục, đục khoét Dân oan Dân lành
Ôi Ngày 27 tháng 7 !
Liệt sĩ – Tử sĩ không thể đội mồ đứng dậy
Hỏi tội hạch tội lũ quan đỏ quan tham
Ôi Ngày 27 tháng 7 !
Ngày Thương binh Liệt sĩ
Chúng ta con cháu Mẹ Việt Nam Anh hùng cùng Thương binh Liệt sĩ
Vùng lên đứng dậy vứt bỏ thứ ngụy đạo đức vào sọt rác
Ôi Ngày 27 tháng 7 !
Đừng đạo đức với kẻ thù của đạo đức
Đừng đạo đức với lũ kên kên kền kền
Đừng đạo đức với lũ tim đen mỏ đỏ
Kết liễu bọn cướp làm hại Dân oan Dân lành
Vùng lên đứng dậy cầm súng bắn vào gáy cổ màng tang
Vùng lên đứng dậy cầm súng bắn vào đầu vào trán
Ôi Ngày 27 tháng 7 !
Kết liễu bọn quan đỏ quan tham càng nhanh càng tốt
Vì Liệt sĩ – Tử sĩ không thể đội mồ đứng dậy
Hỏi tội hạch tội lũ quan đỏ quan tham
Chúng lợi dụng xương máu Liệt sĩ vinh thân phì gia
Kết liễu bọn quan đỏ quan tham càng nhanh càng tốt
Để trả ơn biết ơn Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh quên mình vì Đất Nước
Để trả ơn biết ơn Thương binh đã hy sinh quên mình vì Tổ Quốc
TRIỆU LƯƠNG DÂN
Ôi, cảm động quá! các anh đã hy sinh để cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa Xã hội, để xây dựng một xã hội tươi đẹp không có áp bức, để tiến tới một tương lai tươi sáng, để tiêu diệt kẻ thù của giai cấp, của dân tộc .
Trả lờiXóaĐất nước nào có những người như các anh, chủ nghĩa Cộng sản đang lấp lánh phía chân trời, chúng ta chỉ việc đi cho tới đường chân trời là đạt được chủ nghĩa Cộng sản, và con đường đó sẽ được xây dựng bằng máu thịt của các anh . Tôi kính cẩn nghiêng người trước chủ nghĩa anh hùng dân tộc được thể hiện qua lòng hy sinh quả cảm của các anh .
Liệt sĩ Hoàng Kim Giao hi sinh ngày 29/12 hay là ngày 30/12 ạ? Cháu thấy có nhiều nơi viết không giống với bài của chú.
Trả lờiXóaHôm nay cháu biết thêm về một địa chỉ hi sinh của liệt sĩ anh hùng, bác Hoàng Kim Giao hi sinh ngay trên đỉnh dốc Kỳ Lợn, dưới dốc là các o thanh niên xung phong Truông Bồn. Tất cả đều hoà xác thân vào mảnh đất Nam Đàn - Đô Lương của xứ Nghệ. Thật đáng tự hào! Nhưng cháu cũng chạnh lòng khi phần mộ của liệt sĩ còn đơn sơ quá, chủ yếu do gia đình xây cất, còn khu di tích Truông Bồn cũng đang rất dở dang vì không có kinh phí.
Ngày liệt sĩ nhớ đến Mẹ VN anh hùng của đảng(chứ không phải ai đó rêu rao là Mẹ VN anh hùng nha)bà Nguyễn thị Thứ vì có công và đủ nhẫn tâm để đẩy chồng, 9 đứa con và 2 đứa cháu đi thử đạn.
Trả lờiXóaCác cơ quan nhà nước cũng hay treo bảng "nhiệt liệt chào mừng ngày các anh cụt tay cụt chân", nhiệt liệt nhiệt liệt.
Đối với huynh đệ thì tương tàn, còn bạn 16-4 đang cướp đảo cướp biển thì ôn hòa, tư duy quái lạ.
Cho dù anh đứng về phía nào, nhưng nói với một người đã khuất như bà mẹ Thứ là không thể chấp nhận được, chứng tỏ cái tầm văn hoá của anh cực ngắn. Nhất là anh lại comment trong bài viết này, thế thì anh nói sự hi sinh của Hoàng Kim Giao là ngu xuẩn khi tự giành cho mình cái chết chăng?
XóaĐăng ơi, hoàn toàn đồng ý với Đăng. Sự miệt thị những hy sinh như thế không phải là văn hóa. Lúc đầu mình cũng định delete cái comment đó nhưng rồi quyết định để lại cho mọi người thấy là không phải ai cũng nhận thức vấn đề một cách khách quan, đạo lý.
XóaDù nhà báo Xuân Ba không nghe được điện thoại nhưng qua bài này những người trẻ ở Nghệ An bọn cháu sẽ thay chú, gia đình thường xuyên thắp lên mộ Liệt sĩ những nén hương cảm kích trước tấm gương hi sinh của một kĩ sư trẻ anh hùng.
Trả lờiXóaĐọc bài viết của chú Xuân Ba "Hương khói Truông Bồn" trên báo Tiền phong mà cháu cứ day dứt mãi...
Chú Thông!
Trả lờiXóaCháu đang ấp ủ một dự định là cùng kêu gọi dựng tại khu vực Anh hùng Hoàng Kim Giao hi sinh tấm biển dẫn tích và chỉ dẫn về ngôi mộ Liệt sĩ, để ai qua đường cũng biết được, chứ như hiện nay không ai biết đến ngôi mộ liệt sĩ, cháu thấy cũng rất buồn.
Nếu được, chú có thể chỉ dẫn cháu được không,kinh phí chắc không nhiều nhưng cần sự giúp đỡ về thủ tục của chính quyền địa phương.